Mười Tai ương Ai Cập được trình bày từ chương 7-12 Sách Xuất Hành, kể về những thảm họa khủng khiếp mà Thiên Chúa của Israel giáng xuống Ai Cập nhằm buộc Pharaoh giải phóng cho dân Do Thái. Mục đích của chúng là thể hiện sức mạnh của Thiên Chúa Israel, vượt xa các vị thần và thầy tế của Ai Cập.
Mười Tai ương đó là:
- Nước Biến Thành Máu: Nguồn nước trở nên ô nhiễm, cá chết hàng loạt.
- Ếch Nhái Tràn Lan: Loài ếch nhái sinh sôi không kiểm soát, xuất hiện khắp nơi từ nhà cửa đến giường ngủ.
- Muỗi Mòng Quấy Nhiễu: Những con côn trùng nhỏ li ti này tấn công người và súc vật.
- Ruồi Nhặng Bay Đầy: Loài ruồi gây khó chịu và có thể mang mầm bệnh.
- Súc Vật Chết Hàng Loạt: Thú nuôi của người Ai Cập chết vì dịch bệnh.
- Mụn Nhọt Đau Đớn: Người và súc vật nổi đầy mụn nhọt gây đau đớn, lở loét.
- Mưa Đá Tàn Phá: Một trận mưa đá dữ dội phá hủy mùa màng và nhà cửa.
- Châu Chấu Ăn Hết: Châu chấu kéo đến từng đàn, ăn sạch cây cỏ.
- Bóng Tối Bao Phủ: Ai Cập chìm trong bóng tối dày đặc suốt ba ngày.
- Con Đầu Lòng Bị Giết: Con đầu lòng của mỗi gia đình Ai Cập, bao gồm cả con trai của Pharaoh, đều chết trong một đêm.
Lệnh truyền cho Moses
Tại núi Sinai, Chúa đã giao cho Moses sứ mệnh đến Ai Cập và truyền lệnh cho Pharaoh: “Hãy để dân của ta đi, để họ có thể thờ phụng ta trong vùng đất hoang vu” (Xuất Ê-díp-tô Ký 7:16). Để hỗ trợ, Chúa cũng ban cho Moses khả năng làm phép và người anh Aaron sẽ là phát ngôn viên của ông. Moses và Aaron cùng nhau tạo ra mười tai ương, với Chúa trong vai trò người dẫn dắt mỗi đại nạn.
Trước khi Moses lên đường, Chúa đã báo trước, “Ta sẽ khiến trái tim của Pharaoh chai lì để ông ta không thả dân ta đi.” (Xuất Ê-díp-tô Ký 4:21). Sự cứng lòng của Pharaoh là dụng ý văn học trong Kinh Thánh nhằm nhấn mạnh tính chất nghiêm trọng và kéo dài của loạt tai ương giáng xuống Ai Cập.
01. Nước Biến Thành Máu
“Ông Mô-sê và ông A-ha-ron làm như ĐỨC CHÚA đã truyền. Ông A-ha-ron giơ gậy lên và đập nước sông, trước mặt Pha-ra-ô và bề tôi của nhà vua. Tất cả nước sông liền biến thành máu. Cá dưới sông bị chết, sông ra hôi thối, và người Ai-cập không thể uống nước sông được nữa ; trong cả nước Ai-cập, chỗ nào cũng có máu. Nhưng các phù thuỷ Ai-cập cũng dùng phù phép của mình mà làm như vậy. Lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá, vua không nghe hai ông, như ĐỨC CHÚA đã nói trước. Pha-ra-ô trở về cung điện và cả đến chuyện đó vua cũng không thèm bận tâm. Tất cả người Ai-cập đào đất ở gần sông để tìm nước uống, vì không thể uống nước sông.”
(Xh 7, 20-24)
Nước sông Nile là nguồn sống của người Ai Cập, vậy nên tai ương đầu tiên biến nó thành dòng sông máu đã giáng đòn mạnh mẽ vào Pharaoh. Tuy nhiên, các phù thủy Ai Cập cũng có thể thực hiện phép thuật biến nước thành máu.
Tai ương này xuất hiện sớm nhất trong truyện thần thoại Sumer “Sự khờ dại và người làm vườn”. Nữ hoàng thiên đình trừng phạt con người bằng các tai ương, bắt đầu bằng máu. Nữ thần đổ máu đầy mọi giếng nước, khiến người nô lệ thu lượm củi, nữ nô lệ múc nước chỉ múc được máu.
Cuốn sách Ai Cập Cổ “Lời khuyên của vị hiền nhân Ai Cập” (thế kỷ 22-21 TCN) mô tả thực trạng xã hội, kinh tế, chính trị rối ren của Ai Cập. Tác giả miêu tả sông Nile hóa máu, và trong cơn khát cùng cực, ông ta buộc phải uống nước tiểu của chính mình.
Giới khoa học cho rằng việc nước sông Nile đột ngột chuyển sang màu đỏ có thể là do hiện tượng “tảo nở hoa”, khi một loại tảo cực nhỏ sinh sôi với số lượng cực lớn khiến nước chuyển thành một màu đỏ như máu.
Hiện tượng này thường được gọi là “thủy triều đỏ” khi xảy ra ở đại dương, nhưng tảo đỏ cũng xuất hiện nhiều ở các hệ sinh thái nước ngọt. Tảo nở hoa chắc chắn có thể gây hại cho động vật hoang dã, vì chúng chứa độc tố, tích tụ trong động vật có vỏ và đầu độc những loài ăn chúng. Hơi tảo từ những đợt nở hoa lớn cũng có thể gây độc, tạo ra các vấn đề về hô hấp cho người dân ở khu vực lân cận.
02. Ếch Nhái Tràn Lan
“Ông A-ha-ron giơ tay trên mặt nước của Ai-cập và ếch nhái ngoi lên, lan tràn khắp đất Ai-cập. Các phù thuỷ dùng phù phép của mình cũng làm được như thế: họ làm cho ếch nhái ngoi lên trên đất Ai-cập. Pha-ra-ô mới triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo : “Hãy cầu xin ĐỨC CHÚA đuổi ếch nhái đi xa ta và dân ta, rồi ta sẽ thả dân ra để chúng đi tế lễ ĐỨC CHÚA.” Ông Mô-sê thưa với Pha-ra-ô : “Xin cho tôi được hân hạnh biết khi nào tôi phải cầu xin cho bệ hạ, cho bề tôi và dân của bệ hạ, để ếch nhái rời khỏi bệ hạ và cung điện, mà chỉ còn ở lại trong sông Nin.” Vua trả lời : “Ngày mai.” Ông Mô-sê nói : “Sẽ xảy ra như lời bệ hạ xin, để bệ hạ biết là chẳng có ai bằng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi.”
(Xh 8, 2-6).
Bức tranh thảm họa ếch nhái ập xuống Ai Cập vừa khó chịu vừa mang tính trào phúng. Ếch nhái xuất hiện ở khắp mọi nơi, từ cung điện nguy nga đến giường ngủ, thậm chí cả nồi niêu trong bếp. Hiện tượng kỳ lạ này, như một dấu hiệu báo trước cho sự biến đổi của nước thành máu, không nhằm mục đích gây tổn thương hay giết người, nhưng lại khiến cuộc sống của người dân Ai Cập trở nên vô cùng bất tiện. Pharaoh có cơ hội thoát khỏi mớ hỗn độn này nhưng ông đã từ chối. Trớ trêu thay, trong tai ương này, các phù thủy Ai Cập lại lặp lại hành động của Aaron, khiến cho tình hình thêm tồi tệ. Bởi lẽ, họ tạo ra thêm ếch nhái mà không thể tiêu diệt chúng.
Theo học giả Hort, khoảng một tuần sau khi lũ đất đỏ nhuộm đỏ sông Nile vào tháng 9, ếch bị nhiễm trực khuẩn than Bacillus anthracis (loại vi khuẩn hình thành nha bào có khả năng đề kháng cao và được phát tán bởi côn trùng) sẽ di chuyển lên bờ để tránh nguồn nước ô nhiễm do xác cá chết. Số lượng cá chết khổng lồ tạo môi trường thuận lợi cho vi khuẩn lây lan, dẫn đến cái chết của hàng loạt ếch nhái sau đó.
Tai ương ếch nhái lần đầu tiên cho thấy sự thay đổi trong con người Pharaoh. Ông ta đã nhờ Moses cầu nguyện với Đức Chúa, lần đầu tiên sử dụng danh xưng “Đức Chúa”. Moses đồng ý với thời hạn Pharaoh đưa ra để ếch nhái rút đi, nhưng đồng thời cũng nhắc nhở Pharaoh rằng “chẳng có ai bằng Đức Chúa”. Thông điệp ở đây là quyền lực tối thượng của Đức Chúa vượt qua mọi giới hạn thời gian và mạnh mẽ hơn bất kỳ uy quyền nào của con người.
03. Muỗi Mòng Quấy Nhiễu
Ông A-ha-ron giơ tay cầm gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới đất ; liền có muỗi trên thân thể người ta và thú vật ; tất cả bụi dưới đất biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập. Các phù thuỷ dùng phù phép của mình cũng làm như thế để bắt muỗi phải ra khỏi đất Ai-cập, nhưng không được. Muỗi cứ ở lại trên thân thể người ta và thú vật. Các phù thuỷ thưa với Pha-ra-ô : “Đó là ngón tay của Thiên Chúa !”.
(Xh 8, 13-15)
Dấu hiệu đầu tiên giáng xuống Ai Cập như một lời cảnh tỉnh đanh thép trước sự bất tuân của Pharaoh. Không lời thỉnh cầu nào được đáp lại, không lời cảnh báo nào được đưa ra. Aaron, theo lệnh phán, “đập xuống bụi dưới đất”, và lập tức, “tất cả bụi dưới đất biến thành muỗi trong khắp đất Ai Cập”. Tai ương thứ ba này, không chỉ gây khó chịu tột cùng, mà còn mang ý nghĩa cảnh báo sâu sắc.
Hort xác định tai ương thứ ba là muỗi – loài côn trùng hút máu vốn hoành hành ở Ai Cập vào tháng 10-11. Lũ lụt bất thường của sông Nile càng khiến chúng sinh sôi nảy nở. Lần nữa, tai ương ập đến và rồi dần dần tan biến, không đột ngột như mong đợi.
Trước đó, các phù thủy Ai Cập đã chứng minh khả năng biến nước thành máu và tạo ra ếch, nhưng họ lại bất lực trước nhiệm vụ tống khứ chúng. Lần này, họ cũng không thể đẩy lùi lũ muỗi. Thất bại này buộc họ phải thốt lên: “NGÓN TAY CỦA THIÊN CHÚA đang hoạt động”. Qua đó, người biên soạn trình thuật đã khẳng định rõ ràng ai mới là tôi tớ thực sự của thần linh: Môsê hay các phù thủy Ai Cập.
04. Ruồi nhặng
“ĐỨC CHÚA phán thế này : Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta. Nếu ngươi không thả cho dân Ta đi, thì này Ta sẽ thả ruồi nhặng xuống trên ngươi và bề tôi ngươi, trên dân và cung điện của ngươi. Nhà cửa Ai-cập sẽ đầy ruồi nhặng, ngay cả đất đai nơi chúng ở cũng thế. Nhưng trong ngày ấy, Ta sẽ chừa ra đất Gô-sen là nơi dân Ta đang ở, để nơi đó không có ruồi nhặng, và để ngươi biết rằng Ta là ĐỨC CHÚA, Ta ngự giữa đất này. Ta sẽ phân biệt dân của Ta với dân của ngươi, nội ngày mai sẽ có dấu lạ đó”.
(Xh 8, 16-19)
Tai ương thứ tư, đàn ruồi ập đến, càng khiến cho tình cảnh thêm tồi tệ. Mọi người và mọi nơi trong lãnh thổ Ai Cập đều chịu ảnh hưởng, ngoại trừ Gôsen, nơi người Do Thái sinh sống. Điều này cho thấy rõ ràng rằng Israel không hề gánh chịu tác động của các dấu chỉ. Nó cũng phần nào thể hiện AI LÀ NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI trong tình cảnh này. Thật vậy, câu chuyện một lần nữa nhấn mạnh đến chủ quyền của Đức Chúa: “để ngươi biết rằng Ta là ĐỨC CHÚA, Ta ngự giữa đất này”.
Văn bản mô tả: “cả đất ấy bị ruồi nhặng tàn phá”. Cụm từ “đất đã ra hư hỏng” từng được sử dụng trong Sáng Thế Ký 6:11 để mô tả sự hư hỏng của nhân loại trước trận Lụt Hồng Thủy. Cũng như Thiên Chúa dùng Lụt Hồng Thủy để trừng phạt nhân loại, Ngài đang dùng những tai ương này để trừng phạt Ai Cập vì những hành vi xấu xa của họ.
Theo Hort, tai ương thứ tư này có liên quan đến loài ruồi Stomexys calcitrans (ruồi chuồng ngựa), một loại côn trùng hút máu nguy hiểm. Loài ruồi này có khả năng sinh sôi nảy nở nhanh chóng và bất ngờ biến mất ở các vùng nhiệt đới. Điều này giải thích cho việc tại sao chúng chỉ xuất hiện ở phía nam Ai Cập mà không xuất hiện ở Gôsen, bởi Gôsen có khí hậu cận nhiệt đới Địa Trung Hải chứ không phải nhiệt đới.
Trước thảm họa sắp xảy ra, Pharaô tỏ ra mềm mỏng hơn và đề nghị Môsê và Aaron tế lễ Thiên Chúa “ngay trong đất này”. Môsê không đồng ý vì cho rằng lễ tế Đức Chúa mà họ cử hành có thể sẽ gây khó chịu cho người Ai Cập. Do đó, ông cương quyết đòi phải được tế lễ trong sa mạc. Cuối cùng, Môsê thuyết phục được Pharaô. Ông khẩn cầu Thiên Chúa và một lần nữa, “Thiên Chúa lại làm theo lời ông Môsê xin”. Ruồi nhặng biến mất hoàn toàn. Tuy nhiên, Pharaô lại một lần nữa trở nên cứng lòng và không để cho dân Israel ra đi.
05. Súc vật chết hàng loạt
“Và ĐỨC CHÚA ấn định thời gian, Người phán : “Ngày mai, ĐỨC CHÚA sẽ làm điều ấy trong xứ. Ngay hôm sau, ĐỨC CHÚA làm điều ấy : tất cả súc vật của người Ai-cập đều chết, còn trong đàn súc vật của con cái Ít-ra-en, thì không con nào chết cả. Pha-ra-ô sai người đi xem, thì này trong đàn súc vật của Ít-ra-en, không con nào chết cả. Nhưng lòng Pha-ra-ô đã ra nặng nề cứng cỏi ; vua không thả cho dân đi” (Xh 9, 6-7).
Tai ương thứ năm giáng đòn mạnh vào gia súc Ai Cập, nhưng không ảnh hưởng đến Gôsen, nơi sinh sống của người Do Thái. Đây là lời cảnh báo cho Pharaoh về những điều xấu sắp xảy ra với đất nước ông, nhưng ông vẫn ngoan cố không hành động.
Tai ương này không chỉ gây phiền toái mà còn dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng: tất cả súc vật của người Ai Cập đều bị chết. Theo học giả Hort, nguyên nhân có thể là do bệnh than lây lan từ xác ếch chết hoặc ruồi từ tai ương thứ tư. Tai ương xảy ra vào đầu tháng 1, khi mực nước sông Nile giảm xuống, khiến gia súc được chăn thả ngoài đồng. Vi khuẩn Bacillus anthracis có thể là nguyên nhân chính. Gia súc của người Do Thái được bảo vệ vì họ chăn thả ở vùng châu thổ sông Nile, nơi ngập nước lâu hơn, không cho phép chăn thả ngoài đồng. Ngoài ra, các trận mưa bão Địa Trung Hải cũng có thể cuốn trôi vi khuẩn khỏi khu vực sinh sống của người Do Thái.
Vì một số động vật được coi là vị thần trong tín ngưỡng Ai Cập, tai ương này giáng đòn mạnh vào tôn giáo của họ. Lập luận của Môsê về việc người Do Thái cần tế lễ trong sa mạc để tránh xúc phạm người Ai Cập đã được chứng minh là đúng. Các vị thần Ai Cập thường được mô tả dưới hình dạng động vật, như Apis (thần bò đực thiêng của Ptah) hay Hathor (nữ thần niềm vui với đôi tai bò). Tuy nhiên, không vị thần nào có thể cứu súc vật của người Ai Cập khỏi tai họa do Đức Chúa, Thiên Chúa của Ítrael, giáng xuống.
06. Mụn Nhọt Đau Đớn
Các ông Mô-sê và A-ha-ron lấy mồ hóng trong lò, rồi đến đứng trước mặt Pha-ra-ô. Ông Mô-sê tung lên trời và mồ hóng biến thành ung nhọt rồi mưng mủ nơi thân thể người ta và thú vật. Các phù thuỷ không đứng nổi trước mặt ông Mô-sê được, vì ung nhọt mọc đầy mình các phù thuỷ cũng như mọi người Ai-cập. Nhưng ĐỨC CHÚA làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá, nên vua ấy không nghe lời các ông như ĐỨC CHÚA đã nói trước với ông Mô-sê”.
(Xh 9,10-12)
Tai ương thứ sáu, theo Hort, là bệnh nhiệt than, có thể lây truyền từ ruồi nhặng – tác nhân gây ra tai ương thứ tư. Giống như những tai ương trước, Gôsen vẫn bình an vô sự.
Đây là lần đầu tiên tai ương trực tiếp ảnh hưởng đến con người. Bệnh ung nhọt gây ra bởi tai ương thứ sáu vô cùng đau đớn, đặc biệt là ở đầu gối và đùi (Đnl 28:35), khiến các nhà phù thủy “không thể đứng nổi trước mặt Môsê” – cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Vết loét thu hút sự chú ý của mọi người, như lời nhắc nhở sống động về tình trạng thê thảm của con người.
07. Mưa Đá Tàn Phá
“Sở dĩ Ta còn cho ngươi sống, là để ngươi nhìn thấy sức mạnh của Ta, và để thiên hạ loan truyền danh Ta trên khắp mặt đất. Nếu ngươi cứ chống lại dân Ta, không thả cho chúng đi, thì đây, ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ cho mưa đá rất nặng, như chưa từng có ở Ai-cập từ ngày dựng nước cho đến bây giờ. Vậy ngay bây giờ, ngươi hãy sai người dẫn vào nơi trú ẩn : súc vật của ngươi và tất cả những gì thuộc về ngươi đang ở ngoài đồng. Bất cứ người hay thú vật nào ở ngoài đồng mà không đem vào nhà, thì mưa đá rơi xuống, người ấy, vật ấy sẽ chết”.
(Xh 9, 16-19)
Tai ương thứ bảy, với sức tàn phá dữ dội của mưa đá và sấm sét, được miêu tả chi tiết nhất trong số các tai ương giáng xuống Ai Cập. Điều này cho thấy mức độ gay cấn trong cuộc tranh tài giữa Pharaoh và Moses.
Nhiều học giả Kinh thánh đã chỉ ra những ý nghĩa thần học sâu sắc ẩn sau tai ương này. Thứ nhất, Thiên Chúa muốn cho Pharaoh thấy sức mạnh vô song của Ngài và loan báo vinh quang của Ngài đến mọi miền đất. Thứ hai, tai ương được Moses công khai báo trước với hai lựa chọn cho người Ai Cập. Những ai tin lời sẽ được bảo vệ bằng cách đưa nô lệ và gia súc đến nơi trú ẩn, còn kẻ cứng lòng sẽ phải gánh chịu hậu quả thảm khốc. Thứ ba, sự kiện này phơi bày sự chia rẽ ngày càng sâu sắc trong lòng người Ai Cập. Kẻ kính sợ Thiên Chúa được miễn tai ương, trong khi kẻ phớt lờ lời cảnh báo phải chịu đòn trừng phạt.
Phản ứng của Pharaoh sau trận mưa đá cho thấy ông đã bị tác động mạnh mẽ và sẵn sàng đàm phán nghiêm túc. Ông thừa nhận: “Lần này, chính ta có tội. Đức Chúa là Đấng công chính, còn ta và dân ta đều lầm lỗi”. Lần thứ ba, Pharaoh khẩn cầu Moses chuyển cầu giúp và hứa sẽ cho phép Israel ra đi. Moses cầu nguyện cho Pharaoh, dù biết lời hứa của ông ta không chân thành. Khi mưa đá và sấm sét ngừng lại, Pharaoh lại bội tín lời hứa, cấm người Do Thái rời khỏi Ai Cập.
Mưa đá và sấm sét không chỉ là dấu hiệu báo trước sự hiện diện của Thiên Chúa tại núi Sinai (Xuất hành 19:16) mà còn tượng trưng cho sự trừng phạt của Ngài. Biến cố kinh hoàng này đóng vai trò như lời cảnh tỉnh cho bất kỳ ai biết lắng nghe.
08. Nạn châu chấu
“Ông Mô-sê giơ gậy lên trên đất Ai-cập, và ĐỨC CHÚA cho một luồng gió đông thổi vào đất này suốt ngày hôm đó và suốt đêm ; đến sáng, thì gió đông đã đưa châu chấu vào rồi. Châu chấu bay lên trên khắp đất Ai-cập ; chúng đậu trên khắp cả lãnh thổ Ai-cập, đông vô kể. Trước kia chưa bao giờ có nhiều châu chấu như thế, và sau này cũng chẳng có như vậy. Chúng che kín cả mặt đất, làm đen nghịt cả mặt đất. Châu chấu ăn sạch cỏ cây trong xứ và mọi trái cây mà mưa đá còn để sót lại ; không còn một chút xanh tươi nào trên cây, trên cỏ ngoài đồng, trong khắp đất Ai-cập.
(Xh 10, 13-17)
Pharaoh phớt lờ lời thỉnh cầu của Moses và Aaron, nghi ngờ họ có ý đồ xấu. Ông chỉ cho phép đàn ông Israel ra đi, buộc phụ nữ và trẻ em ở lại làm con tin, đảm bảo họ sẽ quay trở lại. Để thể hiện quyết tâm, Pharaoh đuổi Moses và Aaron đi. Đức Chúa đáp trả bằng tai ương châu chấu.
Nền kinh tế Ai Cập vốn đã suy yếu sau trận mưa đá, nay càng thêm tồi tệ bởi đàn châu chấu hung hãn. Tuy đây là hiện tượng phổ biến ở Ai Cập, nhưng lần này vô cùng bất thường. Học giả Hort giải thích rằng: Vào tháng hai-tháng ba, châu chấu non nở sau mùa đông thường di chuyển đến Palestine và Ai Cập tùy theo hướng gió. “Cơn gió đông” mạnh mẽ sẽ đưa chúng đến Ai Cập, hoành hành từ tháng 3 đến đầu tháng 5. Châu chấu nuốt chửng mọi thứ xanh tươi còn sót lại sau trận mưa đá, tràn ngập lãnh thổ Ai Cập, vượt xa bất kỳ trận dịch nào tổ tiên họ từng chứng kiến. Giống như mưa đá và sấm sét, châu chấu là biểu tượng cho án phạt của Thiên Chúa.
Pharaoh một lần nữa thay đổi thái độ, giọng điệu hối lỗi. Ông thừa nhận đã phạm tội với Đức Chúa, Thiên Chúa của Moses và Aaron, và cầu xin tha thứ. Lần đầu tiên, ông nài nỉ Moses cầu nguyện với Thiên Chúa để loại bỏ tai ương. Moses lại cầu nguyện cho Pharaoh, và Thiên Chúa đáp lời bằng “gió tây” mạnh mẽ cuốn châu chấu đi. Cơn bão này khởi nguồn từ Địa Trung Hải, thổi đàn châu chấu ra khỏi thung lũng sông Nile, dạt về phía tây nam ra đến biển Sậy, nơi quân đội Ai Cập sẽ chịu diệt vong trong tương lai. Dấu chỉ của Thiên Chúa hiện diện cả khi tai ương giáng xuống và khi nó được dẹp bỏ.
09. Bóng Tối Bao Phủ
“ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê : “Hãy giơ tay lên trời, cho bóng tối bao trùm đất Ai-cập, bóng tối như sờ thấy được.” Ông Mô-sê giơ tay lên trời, và bóng tối dày đặc bao trùm cả đất Ai-cập trong ba ngày. Trong ba ngày, người ta không nhìn thấy nhau và không ai rời chỗ mình được. Nhưng tất cả con cái Ít-ra-en đều có ánh sáng tại nơi họ ở”.
(Xh 10, 21-23)
Giống như tai ương thứ ba và thứ sáu, tai ương thứ chín với màn đêm đen đặc bao trùm toàn vùng trong ba ngày cũng bắt đầu bằng chỉ thị trực tiếp từ Thiên Chúa. Pharaoh vội vàng đáp lời, nhưng một lần nữa, ông ta lại đưa ra điều kiện oái ăm: dân Do Thái được phép ra đi nhưng phải bỏ lại súc vật để đảm bảo họ sẽ quay trở lại. Môsê phản đối vì vật nuôi là tế phẩm cần thiết cho nghi lễ tế lễ. Cả Pharaoh lẫn Môsê đều hiểu rõ rằng đây là canh bạc cho tự do hoàn toàn của người Do Thái. Tức giận, Pharaoh ra lệnh đuổi Môsê đi và đe dọa rằng nếu còn nhìn thấy Môsê, ông sẽ phải chết. Môsê cứng rắn đáp trả: “Đúng như bệ hạ nói, tôi sẽ không bao giờ đến trước mặt bệ hạ nữa!”
Bóng tối trong tai ương thứ chín được miêu tả dày đặc đến mức “có thể sờ thấy được”. Theo giải thích của Hort, đây là thảm họa thiên nhiên do gió Nam nóng bức từ sa mạc Sahara, gọi là khamsin, thổi cát và bụi tràn vào Ai Cập. Hiện tượng này xảy ra mỗi năm vào khoảng đầu tháng 3 dương lịch, càn quét dọc theo sông Nile. Bầu không khí trong những ngày gió khamsin trở nên u ám và ngạt thở, kéo dài vài ngày và khiến mọi người phải ở trong nhà. Tuy nhiên, người Do Thái sinh sống chủ yếu ở Gôsen, ít chịu ảnh hưởng bởi bão khamsin ở phía nam do khu vực này nằm ở góc phải thung lũng sông Nile.
Bóng tối dày đặc thường được sử dụng trong Kinh Thánh để tượng trưng cho cảnh khốn khổ, cằn cỗi và trừng phạt. Đây có lẽ là cách thức rõ ràng nhất để diễn tả sự trừng phạt, một dấu chỉ đáng lo ngại cho Pharaoh. Chính sự bướng bỉnh của ông ta đã khiến bản thân và thần dân phải trải nghiệm sự hỗn độn của thế giới trước khi Sáng tạo (St 1,2).
10. Con Đầu Lòng Bị Giết
TRÌNH THUẬT VỀ CÁC TAI ƯƠNG LÊN ĐẾN ĐỈNH ĐIỂM KHI ĐỨC CHÚA PHÁN VỚI MÔSÊ:
“TA SẼ GIÁNG MỘT TAI ƯƠNG NỮA XUỐNG PHA-RA-Ô VÀ AI-CẬP. SAU ĐÓ, VUA ẤY SẼ THẢ CÁC NGƯƠI RA KHỎI ĐÂY. HƠN NỮA, THAY VÌ THẢ CÁC NGƯƠI, VUA ẤY LẠI CÒN ĐUỔI HẲN CÁC NGƯƠI ĐI LÀ ĐÀNG KHÁC” (XH 11,1).
(XH 11,1)
KHÔNG CÒN ĐÀM PHÁN, VÀ CŨNG KHÔNG CÒN CHỖ CHO NHỮNG LỪA DỐI VÀ THỦ ĐOẠN NỮA. MỘT BẢN ÁN CHUNG QUYẾT ĐÃ ĐƯỢC TUYÊN, VÀ NÓ SẼ SỚM GIÁNG XUỐNG PHARAÔ VÀ AI CẬP.
“Vào nửa đêm, ĐỨC CHÚA sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con đầu lòng của vị Pha-ra-ô đang ngồi trên ngai báu, đến con đầu lòng của người tù đang ở trong ngục và mọi con đầu lòng của loài vật. Đêm ấy, Pha-ra-ô thức dậy, cùng với tất cả bề tôi và mọi người Ai-cập, và tại Ai-cập vang lên tiếng kêu la, vì không có nhà nào mà không có người chết”.
(Xh 12, 29-33)
Thiên Chúa chiến thắng các thần của Ai Cập
Một ý nghĩa thần học hàm chứa trong trình thuật Mười Tai Ương đó là uy quyền của Thiên Chúa vượt trên và vượt xa các thần của người Ai Cập cổ đại. Mười tai ương tiêu biểu cho mười vị thần quyền năng nhất của họ, lần lượt như sau:
Nước Hóa Máu: thần sông Nile Hapi. Vị thần cai quản nước sông Nile, điều tiết mùa lũ để bồi đắp phù sa cho ruộng đồng.
Tai ương ếch nhái: Nữ thần Heket, vị thần chuyên về mùa màng và sự màu mỡ, được phác họa trong hình tượng con cóc, hoặc người phụ nữ có đầu hình cóc.
Tai ương muỗi mòng: thần Geb, vị thần đất và cây trồng. Trong trình thuật này ta thấy Mose giơ gậy đập xuống bụi đất. Đó chính là hành động thách thức vị thần này.
Tai ương ruồi nhặng: thần Khepri, vị thần hừng đông. Vị thần này được tạo hình con bọ xít.
Tai ương ôn dịch: nữ thần Hathor, một trong những vị thần được sùng bái nhất của người Ai Cập cổ đại. Nữ thần này là con gái của thần mặt trời Ra, trong quá khứ từng được sai xuống để tàn sát loài người và súc vật.
Tai ương mụn nhọt: nữ thần Isis, một trong những vị thần tối cổ và quyền năng nhất của người Ai Cập. Quyền năng của vị thần này bao trùm mọi khía cạnh đời sống con người, và còn dẫn dắt linh hồn người ta sau khi chết.
Tai ương mưa đá: thần Nut, vị thần cai quản bầu trời, mẹ của nữ thần Isis vừa kể trên. Truyền thuyết về thần Nut liên quan trực tiếp đến nguồn gốc loài người theo ý niệm của người Ai Cập.
Tai ương châu chấu: thần Seth, ác thần đầu chó tàn bạo bậc nhất trong tín ngưỡng Ai Cập cổ, chuyên về chiến tranh, loạn lạc, tàn phá, tên vị thần này đôi khi được dịch ra là “Kẻ Tàn Phá”.
Tai ương bóng tối: Thần Ra (Atum hoặc Re), thần Mặt Trời vĩ đại của người Ai Cập. Hàng ngày Ra cưỡi cỗ xe thái dương đi từ đằng đông sang đằng tây. Đây là một trong những vị thần quan trọng nhất của người Ai Cập.
Tai ương con đầu lòng: chính Pharaoh Ai Cập. Ta biết rằng các pharaoh của Ai Cập tự coi mình như thần thánh và được dân chúng thờ phượng không khác gì chư thần. Tai ương cuối cùng này chính là đòn đánh trực tiếp của Thiên Chúa vào sự kiêu ngạo của loài người.