Lịch Sử Việt Nam

Bùi Thị Xuân: Bi kịch nữ anh hùng

Ngắn gọn nhưng đầy xúc cảm, cuộc đời Bùi Thị Xuân là một tấn bi tráng, tấm gương anh dũng, thủy chung với đại nghĩa.

Tác giả bài gốc: Bùi Thụy Đào Nguyên

Blog Lịch Sử tổng hợp và biên soạn

Lịch sử Việt Nam trải qua nhiều giai đoạn phân tranh, nhưng cũng sản sinh ra những anh hùng kiệt xuất. Trong dòng chảy hào hùng đó, Bùi Thị Xuân nổi lên như một trong những nữ tướng kiêu dũng bậc nhất. Bà có công lớn đối với phong trào Tây Sơn, ghi dấu ấn mạnh mẽ bằng lòng trung thành và khả năng thao lược hiếm có. Bài viết sau đây khái quát về cuộc đời, chiến công cũng như bi kịch cuối cùng của nữ tướng, để từ đó thêm hiểu và trân trọng một nhân vật xuất chúng trong sử Việt.

Gốc tích

Bùi Thị Xuân (? – 1802) là người làng Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Bình Khê (nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Theo nhiều ghi chép, bà là cháu của Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Ngay từ nhỏ, bà đã sớm bộc lộ khí chất hiên ngang, ý chí bền bỉ, và đặc biệt say mê võ nghệ. Người ta kể rằng bà từng học võ với đô thống Ngô Mạnh, xuất sắc nhất là môn song kiếm, nên khi trưởng thành, bà vừa có nhan sắc, vừa tinh thông võ nghệ.

Một trong những tích truyền miệng đẹp đẽ về tình duyên của bà là câu chuyện bà đã ra tay cứu Trần Quang Diệu khi ông đang bị một con hổ lớn vồ trọng thương. Sau đó, bà đưa Quang Diệu về chăm sóc, cứu chữa. Chính nghĩa cử anh hùng và cao thượng này đã gắn kết họ trở thành vợ chồng, để rồi hai người cùng gia nhập nghĩa quân Tây Sơn, cống hiến trọn đời.

Có tài liệu truyền rằng, thời chúa Nguyễn, có hai anh em họ Lê vào Bình Định lập nghiệp, về sau lấy họ mẹ để tránh sự dòm ngó. Bà Bùi Thị Xuân có thể là một nhánh xuất thân từ gia đình này, còn Võ Văn Dũng cũng chung nguồn gốc thúc bá. Mặc dù sử liệu có nhiều dị bản, tất cả đều thống nhất về xuất thân “bất phàm” của Bùi Thị Xuân, rằng bà không những là người con gái xinh đẹp mà còn sở hữu bản lĩnh, khí phách phi thường.

Chiến công

Khi phong trào Tây Sơn bùng lên mạnh mẽ, Bùi Thị Xuân cùng chồng dẫn theo một đội nữ binh và đoàn voi rừng đã được huấn luyện thuần thục. Bà tự xưng là “Tây Sơn nữ tướng” trước khi hội kiến với Nguyễn Huệ. Sau này, chính vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) đã công nhận tài năng của bà, ban tặng bốn chữ “Cân quắc anh hùng” – khẳng định khí phách anh hùng của người phụ nữ đất Tây Sơn.

Trong cuộc đại phá quân Thanh đầu xuân Kỷ Dậu (1789), vợ chồng Bùi Thị Xuân đã lập công lớn, góp phần vào chiến thắng oai hùng đưa Quang Trung lên đỉnh vinh quang. Không chỉ đánh bại quân Thanh, họ còn sát cánh cùng nhà Tây Sơn chống lại sự phản công của Nguyễn Ánh trong suốt hơn mười năm.

  • Bà vừa quán xuyến việc nội chính, vừa cầm quân nơi tiền tuyến, trở thành một trong những tướng lĩnh trụ cột đưa Tây Sơn phát triển cả về quân sự, chính trị, ngoại giao.
  • Đội nữ binh dưới sự dẫn dắt của bà nổi tiếng tinh nhuệ, dũng mãnh, lại thêm đoàn voi chiến hỗ trợ, gây khiếp sợ cho đối phương.

Tư liệu dân gian cho biết, bà còn giỏi huấn luyện voi rừng. Khu vực gò Dinh, sông Côn (Bình Định) từng là bãi tập voi của bà. Ngoài tài võ nghệ, bà còn biết lo chuyện hậu cần:

  • Bà chỉ huy binh sĩ, dân phu khai hoang, làm thủy lợi.
  • Biến những vùng đất cằn cỗi thành ruộng trù phú “nhất đẳng điền” để đảm bảo lương thực nuôi quân.
    Chính sự đa tài của bà đã góp phần vun đắp thêm sức mạnh cho nghĩa quân Tây Sơn, không chỉ dừng ở những chiến công vang dội mà còn tạo hậu phương bền vững.

Bi kịch

Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời, để lại nhiều nỗi tiếc thương. Vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản) còn quá nhỏ, lại nghe lời gièm pha, dẫn đến tình hình triều chính rối ren. Thái sư Bùi Đắc Tuyên lộng quyền, các đại thần kết bè phái, giết hại lẫn nhau. Nội bộ Tây Sơn lục đục, lòng dân chán nản, tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh phục hồi lực lượng.

Năm 1799, Nguyễn Ánh xua quân đánh chiếm lại Quy Nhơn. Vợ chồng Bùi Thị Xuân dốc sức phòng thủ, chỉ huy giữ lũy Trấn Ninh (Quảng Bình). Tương truyền, bà cưỡi voi, xung trận từ sáng đến trưa không lùi; tự tay giành lấy dùi để thúc trống liên hồi. Sử sách và giai thoại còn lưu lại:

  • Đang thế thắng thì vua Cảnh Thịnh nhút nhát, sợ hãi rút quân khi thấy quân Nguyễn đông đảo vượt sông Linh Giang đánh bọc hậu.
  • Lực lượng thủy binh Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ bị phá tan, tướng giữ cửa cũng đầu hàng.
  • Thành quả phòng ngự sụp đổ, đội quân của bà buộc phải bỏ vũ khí rút chạy. Đây chính là trận đánh lớn cuối cùng bà liều chết xông pha nhưng không thể cứu vãn tình thế.

Sau khi Phú Xuân thất thủ, bà cùng chồng và con gái bị quân Nguyễn bắt được ở huyện Thanh Chương, Nghệ An. Tương truyền, Nguyễn Ánh sai giải bà đến trước mặt, hỏi với giọng đắc chí: “Ta và Nguyễn Huệ ai hơn?”.

  • Bà đáp mạnh mẽ: “Chúa công ta; tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Còn nhà ngươi đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu, làm tan nát cả sơn hà, rồi cũng bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng”.
  • Nguyễn Ánh tiếp tục gằn hỏi: “Người có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh?”. Bà trả lời: “Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân đến đất Bắc Hà…”.
    Những lời lẽ cương nghị này khiến Nguyễn Ánh càng thêm căm tức, dẫn đến cuộc hành hình dã man sau đó.

Vào ngày 6 tháng 11 năm Nhâm Tuất (tức 20/11/1802), vua tôi nhà Tây Sơn, trong đó có vợ chồng Bùi Thị Xuân và con gái, bị đem ra pháp trường tại Phú Xuân.

– Chồng bà, Trần Quang Diệu, bị xử lột da.

– Bà và cô con gái độc nhất 15 tuổi tên là Trần Bích Xuân bị xử voi dày tại bãi chém An Hoà (ngoại ô Huế). Tài liệu từ giáo sĩ phương Tây De La Bissachère miêu tả cảnh tượng khủng khiếp:

  • Con gái bà bị lột hết y phục, voi tiến tới chà xát. Cô hoảng sợ, kêu thất thanh. Bà nghiêm mặt quát lớn: “Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta!”.
  • Đến lượt bà, nhờ lớp vải bên trong quấn kín, bà ít bị lộ da thịt. Bà cất tiếng thét thật lớn ngay trước đầu voi, khiến voi giật mình lùi lại. Quân lính phải đâm nhọn, bắn pháo hỏa sau đuôi voi để nó hung tợn lao tới, vòi quấn tung bà lên không. Tuy nhiên, con vật lại rống lên, chạy vòng quanh pháp trường như sợ hãi.

Có nguồn khác như “Thiên Nam nhân vật chí” viết rằng bà bị xử lăng trì, thi hài thiêu rụi. Dù có nhiều phiên bản, tất cả đều khẳng định cái chết bi tráng của bà, thể hiện lòng trung trinh son sắt với triều Tây Sơn.

Tư liệu liên quan

Trần Quang Diệu (1746–1802), quê Quảng Ngãi (có ý kiến cho là Hoài Ân, Bình Định), là danh tướng Tây Sơn. Từ khi Nguyễn Huệ lên ngôi, ông giữ chức Đốc trấn Nghệ An, xây dựng Phượng Hoàng trung đô, dẹp loạn Lê Duy Chỉ. Khi Quang Trung mất (1792), ông giữ chức Thái phó, một trong “Tứ trụ” phò vua Cảnh Thịnh.

  • Ông từng vây thành Quy Nhơn gần một năm (1800–1801) nhưng bị quân Nguyễn cầm chân, tạo thời cơ để Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân, bắt sống Quang Toản.
  • Trần Quang Diệu bị xử lột da, trước đó người hầu cận đã lén lấy mảnh áo dính máu của ông chôn làm mộ gió.
    Số phận vợ chồng Bùi Thị Xuân – Trần Quang Diệu chính là tấm gương trung nghĩa, dám xả thân vì đại cuộc, nhưng cuối cùng chịu kết cục tàn khốc.

Năm 1802, Nguyễn Ánh tiến ra Thăng Long, Quang Toản (mới 19 tuổi) chạy lên phía Bắc nhưng bị dân làng vây bắt, đưa nộp cho quân Nguyễn để lĩnh thưởng. Em ông là Quang Thùy cùng vợ chồng Đô đốc Tú treo cổ tự tử. Nguyễn Ánh khải hoàn về Phú Xuân, dùng cực hình 5 voi xé xác Quang Toản, đồng thời quật mồ, phá hủy hài cốt Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc. Triều Tây Sơn hoàn toàn chấm dứt.

Bút ký “Còn mãi đến bây giờ” của Hoàng Phủ Ngọc Tường thuật lại rằng, chính mắt ông chứng kiến một căn nhà nhỏ 3 gian chỉ rộng độ 5 mét, hai bên là hai chái chật chội, không còn gì ngoài một chiếc tủ gỗ mộc cũ kỹ. Người ta kể đó là di tích cuối cùng liên quan đến vợ chồng Bùi Thị Xuân, Trần Quang Diệu.

  • Dù từng giữ chức Thái phó, Đô đốc với quyền lực nghiêng trời, họ không hề tham lam vinh hoa.
  • Hình ảnh căn nhà nhỏ xập xệ khiến người đời xót xa, càng tôn thêm phẩm giá thanh liêm, giản dị của những bậc trung nghĩa.

Người đời sau có nhiều thơ vịnh về bà, như trong bài “Bùi Phu Nhân Ca” của Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì, ví bà với Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến hay nàng Mộc Lan xông trận ở sông Hoàng Hà. Hoặc những bài thơ cận đại khác cũng ca ngợi:

Vận nước đang xoay chuyển
Quần thoa cũng vẫy vùng
Liều thân lo cứu chúa
Công trận quyết thay chồng.
Khảng khái khi lâm nạn!
Kiên trinh lúc khốn cùng
Ngàn thu gương nữ liệt
Gương sáng hãy soi chung

Những chi tiết này làm rõ thêm hình ảnh một nữ tướng toàn tài, cống hiến hết mình cho lý tưởng và vua Tây Sơn, đến lúc lâm chung vẫn kiên cường không khuất phục.

Tóm lại

Ngắn gọn nhưng đầy xúc cảm, cuộc đời Bùi Thị Xuân là một tấn bi tráng, tấm gương anh dũng, thủy chung với đại nghĩa. Bà đã chứng minh người phụ nữ cũng có thể cầm quân, đánh trận, sánh ngang đấng mày râu, thậm chí còn bền gan vững chí hơn nhiều nam tướng đương thời. Từ hình tượng đẹp đẽ ấy, ta càng thấm thía giá trị của lòng trung nghĩa, cùng niềm tự hào về những người con ưu tú của đất nước, đã hiến dâng trọn đời cho một triều đại vàng son dù kết cục không trọn vẹn. Hình ảnh căn nhà nhỏ nhoi nơi quê gốc bà để lại vẫn nhắc nhở ta rằng, dẫu vinh quang hay cay đắng, những con người ấy đã sống vì nghĩa lớn, và hào khí của họ còn vọng mãi cùng non sông.

5/5 - (1 vote)

Chúng tôi không có quảng cáo gây phiền nhiễu. Không bán dữ liệu. Không giật tít.
Thay vào đó, chúng tôi có:

  • Những bài viết chuyên sâu, dễ đọc
  • Tài liệu chọn lọc, minh bạch nguồn gốc
  • Niềm đam mê bất tận với sự thật lịch sử
DONATE

Toàn bộ tiền donate sẽ được dùng để:

  • Nghiên cứu – Mua tài liệu, thuê dịch giả, kỹ thuật viên.
  • Duy trì máy chủ và bảo mật website
  • Mở rộng nội dung – Thêm nhiều chủ đề, bản đồ, minh họa

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM