Lược dịch từ sách Vietnam at War: The History: 1946-1975, Xuất bản năm 1988
Trong cuộc chiến tranh Đông Dương, sau thất bại ở Hòa Bình (1951 – đầu 1952), người Pháp và tướng Salan phải đối diện với một Võ Nguyên Giáp mang diện mạo mới. Đây là giai đoạn Giáp bắt đầu cho thấy sự chín muồi về chiến lược, biết sử dụng yếu tố “thế và lực” kết hợp, đồng thời khai thác các điểm yếu của Pháp trên mọi mặt trận. Từ tháng 9/1952 đến tháng 5/1953, cuộc đối đầu Pháp – Việt Minh đã diễn ra với cao trào là những trận đánh lớn: Nghĩa Lộ – sông Đen (Black River), chiến dịch LORRAINE của Pháp, các trận “lệch pha” ở Nà Sản, và kết thúc bằng cuộc tiến sâu đầu tiên của Việt Minh vào Lào. Chính giai đoạn này được xem là mấu chốt, khi quân đội Việt Minh giành được thế chủ động và mở đường cho sự sụp đổ của người Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954.
Dưới đây là tổng thuật những diễn biến chính cùng phân tích lý do vì sao mùa đông – xuân 1952 – 1953 lại trở thành dấu ấn “trưởng thành” của Võ Nguyên Giáp trong vai trò một nhà cầm quân.
Tương Quan Lực Lượng Tháng 9/1952
Khi mùa mưa Tây Nam (tháng 5 – 9) kết thúc, hai bên sẵn sàng bước vào chiến dịch đông – xuân mới. Phía Việt Minh có tầm 110.000 – 125.000 quân chủ lực, tổ chức thành 6 sư đoàn bộ binh (308, 312, 316, 320, 325, 304) và 1 sư đoàn pháo hạng nặng (351) vừa thành lập, gồm các trung đoàn pháo, công binh, phòng không nhẹ. Bên cạnh đó, còn khoảng 60.000 – 75.000 quân khu (Regional), cộng thêm 120.000 – 200.000 dân quân du kích có trình độ trang bị – tổ chức yếu hơn.
Pháp có khoảng 90.000 quân viễn chinh (kể cả không quân – hải quân), trong đó 50.000 là người Pháp chính quốc; còn lại là Bắc Phi, Lê dương (Legion Étrangère) và binh lính Đông Dương được sĩ quan Pháp chỉ huy. Họ có đội ngũ cấp dưới khá tinh nhuệ, nhưng lực lượng Quốc gia Việt Nam (VNQG) khoảng 100.000 người vẫn chưa thực sự hiệu quả do mâu thuẫn chỉ huy và thiếu sĩ quan. Nếu tính gộp mọi lực lượng, Pháp có thể huy động tối đa 50.000 quân cơ động cho các chiến dịch tiến công – phần còn lại dàn trải phòng thủ trên tuyến “Phòng tuyến de Lattre” và lo chống du kích ở hậu cứ.
Về tướng lĩnh, sau khi de Lattre qua đời (đầu 1952), Raoul Salan giữ chức tổng chỉ huy kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương. Salan có biệt danh “Le Mandarin” do phong cách bí ẩn, yêu thích văn hóa Á Đông, từng phục vụ sớm ở Lào. Tuy nhiên, trong chiến dịch 1952 – 1953, ông không tạo dấu ấn chiến thuật nổi bật, thậm chí sau này tham gia quân phiệt chống de Gaulle. Đối lại, Võ Nguyên Giáp sau những bài học 1951 đã dành thời gian mùa mưa (tháng 5 – 9) rút kinh nghiệm và vạch chiến lược sâu rộng hơn.
Giáp Phân Tích Lợi Thế, Khuyết Điểm Hai Bên
Giáp nhận định:
- Pháp có Phòng tuyến de Lattre vững chắc quanh đồng bằng sông Hồng. Bên cạnh đó, họ có thể cơ động bên trong tuyến để chi viện lẫn nhau nhờ cự ly ngắn (họ ở “nội tuyến”), và có không quân, pháo binh, tàu chiến hỗ trợ.
- Pháp yếu ở chỗ không thể duy trì lâu các lực lượng lớn “ra ngoài” đồng bằng (vì tiếp tế đường bộ – sông rất khó, máy bay vận tải không đủ), và họ buộc phải bảo vệ đồng minh địa phương (T’ai, Mường, công giáo, hoặc Lào). Quân Pháp cũng thiếu số lượng (quân cơ động không quá 50.000), còn không quân – hải quân chỉ phát huy tối đa nếu địa bàn đủ gần châu thổ.
Do đó, Giáp quyết định tránh va chạm trực diện với “Phòng tuyến de Lattre” và các đô thị lớn có không quân yểm trợ, chuyển trọng tâm lên Tây Bắc (vùng dân tộc T’ai, Mường) và vượt biên giới sang Lào – nơi Pháp phải dốc sức bảo vệ, nhưng đường tiếp tế của họ lại dài và khó khăn. “Kéo địch ra xa hậu cứ” là mấu chốt trong chiến lược mới.
Tấn Công Đợt 1: Từ Nghĩa Lộ Tới Sông Đen
Mục tiêu và diễn biến ban đầu
Mùa thu 1952, Giáp chọn đánh vào tuyến đồn Pháp dọc dãy Phan Si Păng (giữa sông Hồng và sông Đà – Black River). Điểm then chốt là Nghĩa Lộ (trung tâm người T’ai), từng bị Việt Minh tấn công bất thành năm 1951. Nếu chiếm được, Việt Minh sẽ uy hiếp hàng loạt đồn dọc sông Đà: Lai Châu, Sơn La, Nà Sản, Mộc Châu.
Ngày 11/10, ba sư đoàn 308, 312, 316 vượt sông Hồng trên mặt trận rộng 40 dặm, tiến vào Nghĩa Lộ. Pháp phát hiện muộn, 15/10 cứ điểm Gia Hội (nằm tây bắc Nghĩa Lộ) bị 312 vây chặt. Salan ném một tiểu đoàn dù đến Tú Lệ để che chở đường rút lui cho các đồn, nhưng 17/10 Nghĩa Lộ thất thủ chỉ sau vài giờ kháng cự, hơn 700 lính Pháp – ngụy bị diệt. Toàn bộ tuyến phòng thủ “rặng núi” sụp đổ. Dù tiểu đoàn dù 6 (6e BPC) chiến đấu dũng mãnh, họ bị áp đảo, gần như hi sinh toàn bộ. Giáp thừa thắng, chiếm dần các khu vực sát sông Đà đến đầu tháng 11, rồi tiếp cận chuỗi đồn Lai Châu – Sơn La – Nà Sản – Mộc Châu. Riêng Điện Biên Phủ (vốn chỉ là một đồn nhỏ) bị 1 cánh quân Giáp chiếm dễ dàng vì Pháp không phòng bị.
Chiến dịch LORRAINE của Pháp (tháng 10 – 11/1952)
Trước sức ép, Salan tung ra chiến dịch LORRAINE (30.000 quân) đánh ngược vào căn cứ Việt Bắc (Yên Bái, Thái Nguyên…) nhằm buộc Giáp rút 3 sư đoàn khỏi tây bắc. Kế hoạch:
- Hai cánh quân qua sông Hồng (Trung Hà – Phú Thọ) và từ Việt Trì ngược đường số 2, hội quân ở Phú Thọ.
- Sau đó tiến lên Phú Đoan, đổ bộ dù chiếm bờ kia sông Lô (Clear River), kết hợp tàu “dinassaut” để ép Giáp đối phó.
Ban đầu, Pháp tiến nhanh qua các ngầm, ngày 7/11 hai cánh gặp nhau ở Phú Thọ. Nhưng Giáp không mắc lừa: ông chỉ để lại 2 trung đoàn (“dự bị”) chặn đường Pháp, còn 3 sư đoàn chính vẫn tiếp tục mạch tiến công ở Tây Bắc. Pháp tới Phú Đoan (9/11), chiếm được một kho vừa, chỉ phát hiện 1.400 khẩu súng cũ, 100 tiểu liên, 80 cối, 200 tấn đạn – không đủ “lớn” để buộc Giáp rút đại quân. Salan định mở rộng qua ngã 157 – 13A để đánh Yên Bái, nhưng lại không dám vì sợ sa lầy. 14/11, chiến dịch LORRAINE chấm dứt, Pháp rút lui vội. Tới Chân Muông (17/11), họ bị trung đoàn 36 (sư 308) phục kích dữ dội, tổn thất 1.200 người trước khi về được phòng tuyến de Lattre.
Chiến dịch LORRAINE hoàn toàn thất bại, không kéo được Giáp rời Tây Bắc. Giáp chỉ dùng 2 trung đoàn cầm chân Pháp ở Đông Bắc, còn 308, 312, 316 ung dung đánh sâu vùng tây bắc sông Đà.
Nà Sản: Sai Lầm của Giáp (tháng 11 – 12/1952)
Trong lúc Nghĩa Lộ – sông Đà thắng lớn, Giáp muốn đánh nốt Nà Sản để kiểm soát Tây Bắc, lập căn cứ cho các kế hoạch tương lai sang Lào. 23/11, sư 308 tấn công Nà Sản nhưng vấp phải 10 tiểu đoàn Pháp phòng ngự chắc (chứ không phải 5 tiểu đoàn yếu như Việt Minh tin). Bị hỏa lực và không quân yểm trợ, 308 thất bại.
Dù biết thực lực phòng ngự Pháp ở Nà Sản, Giáp vẫn cố thêm lần hai (30/11), rồi lần ba (1 – 2/12). Kết quả, 7.000 quân Việt Minh thương vong. Nhà sử học cho rằng Giáp “cần Nà Sản” vì đó là địa bàn lý tưởng để xuất phát sang Lào. Không chiếm được, ông buộc phải dời căn cứ hậu cần sang Mộc Châu (đã chiếm cuối tháng 11). Ba lần công phá Nà Sản trở thành vết gợn trong chuỗi thành công của Giáp mùa đông 1952.
Lấn Sang Lào Đợt 1 (tháng 12/1952)
Dù thất bại ở Nà Sản, Giáp vẫn chiếm Son La, Mộc Châu, vượt sang Lào cuối tháng 12. Mục tiêu: Sam Neua (Đông Bắc Lào), nơi có liên hệ chặt với Pháp. Nhưng logistic Việt Minh gặp trở ngại: người T’ai bất hợp tác, vứt bỏ gánh hàng, Giáp thiếu lương thực, đạn dược. Cuối tháng 12, đợt tấn công dừng lại khi Giáp rút về Tây Bắc.
Trong lúc ba sư đoàn 308, 312, 316 tạm nghỉ (12/1952 – 3/1953), Giáp phái các đơn vị độc lập thọc xuống Phát Diệm (Công giáo) ở tây nam đồng bằng, và 84, 95 tấn công An Khê (Trung Bộ), Kontum, Pleiku. Mục đích: làm Pháp căng ra ở nhiều hướng, không thể tập trung đối phó khi Giáp quay lại Lào vào mùa khô 1953. Dù Pháp vẫn chặn đứng được các đòn này (bổ sung 3 tiểu đoàn dù), họ càng bị phân tán, không dám dồn toàn lực bảo vệ Lào.
Lấn Sang Lào Đợt 2 (Tháng 4 – 5/1953)
Đến tháng 4/1953, Giáp quyết định xua 3 sư đoàn (308, 312, 316) sang Lào, tấn công sâu hơn đợt 1. Lợi thế:
- Lào xa châu thổ, Pháp khó tiếp viện.
- Bản thân Lào quan trọng về chính trị – tâm lý: nếu sụp đổ, Pháp càng lao đao ở Paris.
- Việt Minh không cần “thắng to”; chỉ cần khẳng định khả năng “sang Lào” dễ dàng, khiến Pháp phải trải mỏng, lo thêm biên giới 2.000 km.
Thách thức lớn nhất vẫn là hậu cần. Lần này, Giáp cho tập kết lương thực ở Mộc Châu (thay vì Nà Sản), đưa dân công từ vùng khác tới (không phụ thuộc T’ai). Nhờ thế, ba sư đoàn tiến nhanh với nhịp 20 km đường rừng mỗi ngày – đáng nể đối với lối vận chuyển “gùi thồ”.
Hành tiến ban đầu
- 316 đánh Sam Neua (đông Lào). Pháp lệnh đồn rút (12/4), nhưng rút muộn, bị 316 chặn đánh, chỉ 235/2.500 quân tới đích Xiangkhoang.
- 312 từ Điện Biên Phủ xuôi nam sông Nam Ou, vòng sang Luang Prabang (hoàng đô của Lào). Đồn Muong Khoua trụ vững, buộc 312 để một cánh quân vây, phần lớn vẫn tiếp tục.
- 308 (Thiên vương sư) từ Nà Sản vượt Nam Seng thọc về hướng tây nam, có thể chọn Plain of Jars hoặc Vientiane.
Giữa tháng 4, ba hướng tiến rất nhanh; Pháp hoang mang. Họ rời Xiangkhoang rút về Cánh Đồng Chum (Jars Camp). Luang Prabang được 312 bao vây (28/4), song có vua Lào ở lại, Pháp gửi 3 tiểu đoàn tinh nhuệ giữ lại. Riêng 308 quay mũi xuống Plain of Jars. 26/4, 308 và 316 hội nhau vây Jars Camp, 312 bao vây Luang Prabang. Lào hầu như mất kiểm soát vùng bắc.
Pháp không đủ lực giải vây, chỉ giữ Cánh Đồng Chum và Luang Prabang. Cuối tháng 4, mùa mưa sắp đến, Giáp thiếu lương thực, nên 7/5 hai sư đoàn 312, 316 rút về Việt Nam, để 308 lại cầm chân Pháp. Chiến dịch “xâm nhập Lào” kết thúc thành công vượt bậc: sự hiện diện Pháp ở bắc Lào suy yếu, uy danh Việt Minh tăng. Salan bất lực, tháng 5/1953 chuyển giao cho tướng Henri Navarre.
Bài Liên Quan
Chiến lược mới của Giáp và bài học cho Pháp
Qua mùa đông – xuân 1952 – 1953, Giáp cho thấy tính hoàn thiện của chiến lược “đánh chỗ yếu, né chỗ mạnh”. Thay vì liều lĩnh “đốt giai đoạn” như ở 1951 (Vĩnh Yên, Mạo Khê, Sông Đáy), Giáp kiên nhẫn kéo quân Pháp ra vùng rừng núi, nơi họ khó tiếp tế, buộc họ phân tán, chạy theo “cứu đồng minh”. Chiến thuật tấn công Lào – vùng T’ai – vùng giáo dân mang tính gián tiếp cực kỳ hiệu quả, làm Pháp quay cuồng mà vẫn không cứu vãn được tình thế.
Những sai lầm – thành công lớn
- Sai lầm Nà Sản: Ba lần công hạ đồn, tổn thất 7.000 quân. Giáp hành động vì cần căn cứ cho chiến dịch sang Lào. Tuy nhiên, tấn công vẫn theo kiểu “công đồn” trực diện, không nắm đủ thông tin về hỏa lực, quân số địch.
- Thành công ở LORRAINE: Giáp bình tĩnh không rút toàn bộ khỏi Tây Bắc, chỉ để 2 trung đoàn chống đỡ. Pháp tự rơi vào thế “đánh vỗ về” (demo) rồi rút.
- Hai lần xâm nhập Lào (12/1952 và 4/1953) chứng minh năng lực hành quân xa, tốc độ gọn, linh hoạt bỏ qua các cứ điểm nhỏ (như Muong Khoua), nắm toàn cục.
Phía Pháp: bài học và nhận định sai
- Thấy kết quả ở Nà Sản (Việt Minh lỗ nặng), Pháp tin rằng “lập một tập đoàn cứ điểm lớn, phòng thủ chắc, sẽ diệt đại quân Giáp” nếu Giáp liều lĩnh xung phong. Niềm tin này chính là tiền đề cho Dien Bien Phu.
- Pháp cũng hiểu phải bảo vệ Lào bằng cách tạo “một căn cứ mạnh chắn đường Giáp”. Họ nhìn sai, cho rằng Giáp sẽ “lại húc” kiểu Nà Sản.
- Tuy nhiên, Pháp đúng khi đánh giá Lào rất quan trọng. Họ muốn tăng quân Quốc gia Việt Nam để rảnh tay. Nhưng chừng ấy vẫn không đủ bù đắp sức mạnh mà Việt Minh giờ đã có.
Kết
Đông – Xuân 1952 – 1953 đánh dấu Giáp chính thức kiểm soát cục diện: ông hiểu cách thức “tránh điểm mạnh địch, đánh điểm yếu”, biết xài “đòn gió” (An Khê, Phát Diệm), đạt tốc độ hành quân cao, tận dụng triệt để thế chủ động. Pháp loay hoay đối phó, vừa bị dội lại ở Tây Bắc, vừa không cản nổi đợt tràn sang Lào.
Chiến dịch này cũng là đỉnh cao của “chiến lược gián tiếp” trước lúc dẫn đến chảo lửa Điện Biên Phủ (1953 – 1954). Ý đồ của Pháp – “dựng đại cứ điểm để dụ Giáp” – hóa ra đã được Giáp đón chờ với kế hoạch chu toàn: chủ động vây hãm, tập kết pháo binh, kéo pháo vào, rồi đập tan Điện Biên Phủ. Tất cả manh nha từ thành công kiểm soát Tây Bắc cùng hai lần “hành quân thần tốc” vào Lào.
Có thể nói, mùa chiến dịch 1952 – 1953 đã chứng minh Võ Nguyên Giáp không còn là vị tướng “bốc đồng” thích “công đồn tổng lực” như năm 1951. Thay vào đó, Giáp trở thành nhà chiến lược biết tính toán đường dài, sở hữu tư duy linh hoạt và khả năng “tác chiến chiều sâu” trên địa bàn rộng lớn Đông Dương. Nhờ vậy, sau mùa mưa 1953, Giáp hoàn toàn sẵn sàng cho đỉnh cao quyết chiến – nơi mà cả sức mạnh lẫn những dự đoán sai lầm của Pháp hội tụ, mở đường tới thắng lợi Điện Biên Phủ (5/1954).
Bài học từ đông – xuân 1952 – 1953 không chỉ là cú hích tinh thần cho Việt Minh, mà còn là tiếng chuông cảnh tỉnh với người Pháp: Kẻ thù mà họ coi thường từ 1946 nay đã trở thành một “đối thủ đáng gờm”, đẩy họ vào thế phòng ngự bị động cả ở Việt Nam lẫn Lào. Và chính vào lúc này, Pháp bắt đầu chọn “thí điểm” chiến lược “tập đoàn cứ điểm” – một tính toán sẽ kết thúc bằng bi kịch “Điện Biên Phủ” chưa đầy một năm sau đó.