Chiến tranh Việt Nam ngày càng kéo dài, nước Mỹ ngày càng bị chia rẽ. Người già thì cho rằng cần ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, nhưng lớp trẻ lại thấy cuộc chiến này chẳng đi đến đâu, thậm chí là độc ác. Đặc biệt, nhiều người phản đối chuyện bắt buộc đi lính, điều này khiến nhiều thanh niên bị đẩy vào nơi đất khách quê người không vì lý do gì. Năm 1973, khi Mỹ kết thúc vai trò trong cuộc chiến, những xáo trộn lớn về chính trị, xã hội, và văn hoá đã xảy ra. Sự thay đổi này thường được thể hiện qua các bộ phim và bài hát thời đó – từ nhạc phản chiến cho đến phim tập trung vào cuộc đời của các chiến binh trở về từ Việt Nam.
Giai đoạn mới: kẻ thù Đỏ và chủ nghĩa McCarthy
Sau Thế chiến thứ II, Liên bang Xô viết – một thời từng là đồng minh – quay ngoắt thành kẻ thù về mặt tư tưởng. Mỹ phát hiện ra nhiều vụ gián điệp của Liên Xô, ngay cả trong dự án Manhattan – dự án chế tạo ra bom hạt nhân đầu tiên trên thế giới. Từ 1945 đến 1950, có hàng loạt hành động quân sự hung hăng của phe cộng sản khiến phương Tây lo ngại.
Đầu tiên, Liên Xô không chịu rút quân khỏi Đông Âu, điều này khiến cựu thủ tướng Anh, Winston Churchill, có bài phát biểu Bức màn sắt nổi tiếng vào năm 1946, cho thấy sự phân chia rõ ràng giữa phương Tây dân chủ và khối cộng sản độc tài. Năm 1948, Liên Xô thử nghiệm không lưu Berlin để thăm dò phương Tây, kết quả là đợt không vận Berlin vô cùng độc đáo. Mùa thu năm sau, Liên Xô còn kích nổ quả bom nguyên tử đầu tiên, rồi chỉ vài tháng sau, phe cộng sản thắng trong Nội chiến Trung Quốc, khiến Trung Quốc nhuốm màu đỏ cộng sản. Tháng 6 năm sau, Triều Tiên tấn công Hàn Quốc.
Những người chống cộng, ví dụ như thượng nghị sĩ Joseph McCarthy, bắt đầu cáo buộc chính phủ Mỹ quá mềm mỏng với phe cộng sản. Chủ nghĩa McCarthy (McCarthyism) là một phần của Nỗi Sợ Đỏ lần thứ hai cuối những năm 40 đầu 50, khi rất nhiều người Mỹ bị nghi ngờ là cộng sản hoặc có cảm tình với cộng sản, thường là chẳng có bằng chứng nào. Sợ hãi trước Liên Xô trong Chiến tranh lạnh, chính phủ Mỹ ít dám đối đầu với McCarthy.
Dù cơn sốt McCarthy hạ nhiệt vào năm 1954, khi người ta bắt đầu nhận ra ông thượng nghị sĩ này hay bịa đặt, nói dối về vụ việc cộng sản trà trộn vào chính quyền, nhiều chính trị gia vẫn dè chừng, chẳng muốn bị gán bất kỳ cái mác “thông cảm với cộng sản” nào. Chính cái tâm lý này ít nhiều ảnh hưởng đến phản ứng của dân Mỹ đối với Chiến tranh Việt Nam một thập kỉ sau.
Làn sóng giành độc lập hậu Thế Chiến
Sau thảm bại trong Thế chiến II, các cường quốc thực dân như Anh, Pháp và Bỉ kiệt quệ cả về tài chính lẫn quân sự. Nhật Bản, một thế lực chiếm đóng lớn ở châu Á, bị tước bỏ toàn bộ thuộc địa. Lợi dụng tình thế đấy, nhiều nước thuộc địa vùng lên giành độc lập, tạo thành làn sóng giải phóng thuộc địa rộng khắp ở châu Phi và châu Á.
Dù Pháp tìm mọi cách giữ lại Đông Dương, Anh đã chủ động trao trả độc lập cho Ấn Độ và Pakistan vào năm 1947. Về mặt chính trị, Pháp không còn đủ uy tín để dùng vũ lực thống trị các thuộc địa, trong đó có Việt Nam, sau khi nhân loại vừa trải qua cuộc chiến chống lại chủ nghĩa phát xít độc tài. Viện trợ quân sự từ Mỹ cho quân đội Pháp nhằm duy trì thuộc địa và ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản do đó gây nên nhiều tranh cãi.
Hồ Chí Minh tìm kiếm sự hỗ trợ nhưng bị ngó lơ
Năm 1946, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Tổng thống Mỹ Harry S.Truman, tìm kiếm sự hỗ trợ để chấm dứt những nỗ lực tái chiếm thuộc địa của Pháp. Truman đã bỏ qua yêu cầu này và từ năm 1950 bắt đầu đứng về phía Pháp. Vì muốn giành được thiện cảm từ các quốc gia mới giành độc lập trong thời kì Chiến tranh Lạnh, cả Mỹ và Liên Xô đều tích cực can thiệp vào cục diện chính trị tại các nơi này. Điều này khiến cho nhiều hoạt động của Mỹ trong thời kỳ giải phóng thuộc địa (1945 – 1960) bị phê phán vì nghiêng về việc đàn áp chủ nghĩa cộng sản hơn là ủng hộ tự do và độc lập.
Sau khi Việt Nam đánh bại Pháp, Hiệp định Geneva chia cắt Việt Nam thành hai miền. Cũng giống như ở Triều Tiên, phía Bắc được Liên Xô và Trung Quốc hậu thuẫn, trong khi Mỹ ủng hộ chính quyền miền Nam.
Nghĩa vụ quân sự – vấn đề nhức nhối của nước Mỹ
Một trong những khía cạnh gây tranh cãi nhất trong Chiến tranh Việt Nam đối với Hoa Kỳ là việc cưỡng bách tòng quân (hay còn gọi là “lính nghĩa vụ”). Chính sách này cho phép chính phủ bắt buộc người dân nhập ngũ, ngay cả khi không có chiến tranh. Lần đầu tiên nó được thực thi trong thời bình là vào năm 1940 để chuẩn bị đối phó với các cuộc chiến đang leo thang ở châu Âu và khu vực Thái Bình Dương. Trước tinh thần chống phát xít cao của người dân Mỹ trong Thế chiến II, chính sách này không vấp phải chỉ trích nào đáng kể, và sau Trân Châu Cảng, nhiều người còn hăng hái tình nguyện gia nhập quân đội.
Nghĩa vụ quân sự tạm thời bị đình chỉ sau Thế chiến II nhưng được khôi phục vào năm 1948 dưới áp lực của thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Nó được áp dụng tích cực trong Chiến tranh Triều Tiên, mặc dù các cựu chiến binh trong Thế chiến II được miễn trừ. Để quản lý những người đàn ông nằm trong độ tuổi tòng quân tốt hơn, Đạo luật Tuyển quân (Selective Service Act) được tái cho phép vào năm 1951, yêu cầu tất cả nam giới từ 18 đến 26 tuổi phải đăng ký nghĩa vụ quân sự. Từ sau Chiến tranh Triều Tiên cho đến khi Mỹ chính thức can dự trực tiếp vào Việt Nam vào năm 1964, số lượng lính nghĩa vụ sụt giảm đáng kể, xuống mức thấp nhất là 82.000 người vào năm 1962.
Of course! Here’s a casual Vietnamese translation, broken into sections for clarity. I’ve aimed for a flexible and conversational style:
Ủng hộ chiến tranh
Lúc đầu, khi Mỹ nhảy vào chiến tranh Việt Nam cuối năm 1964, dân chúng Mỹ phần lớn ủng hộ quyết định đi lính. Năm 1965, đa số người Mỹ vẫn tin cuộc chiến này cần thiết. Hồi đó, người ta nghĩ là phải chặn đứng Cộng sản giống như Mỹ can thiệp ở Triều Tiên trước kia. Nhưng càng ngày lính Mỹ chết càng nhiều mà không thấy thắng lợi gì cả nên phong trào ủng hộ chiến tranh bắt đầu rệu rã. Chiến tranh du kích ở Việt Nam đâu có giống Thế Chiến Thứ Hai hay chiến tranh Triều Tiên, Mỹ dù mạnh cỡ nào mà cũng bị bó tay thôi.
Dù báo chí ít nói thì phong trào ủng hộ chiến tranh vẫn có, thậm chí tới đầu những năm 1970 vẫn còn biểu tình đó. Họ chê những người phản chiến là làm cho nước Mỹ trông yếu ớt, và khăng khăng rằng Mỹ thừa sức thắng nếu được dân chúng và chính phủ ủng hộ. Người ủng hộ chiến tranh thường là mấy ông bà lớn tuổi, hoặc là cựu binh từng đánh nhau trong Thế Chiến, hoặc mấy người cuồng chống Cộng hồi xưa. Một trong những vụ biểu tình lớn nhất là “Hard Hat Riots” vào tháng Năm năm 1970, một đám công nhân xây dựng đánh nhau với sinh viên. Nhiều người cho rằng vụ này chứng minh dân Mỹ lao động và đa số người Mỹ nói chung đã chán ngấy mấy trò phản chiến rồi.
Phong trào phản chiến ngày càng lớn
Từ năm 1963, trước cả vụ Vịnh Bắc Bộ mà Mỹ dùng làm lý do chính thức đổ quân vào Việt Nam, cũng đã có những cuộc biểu tình phản chiến nhỏ rồi. Phong trào bắt đầu mạnh trên các trường đại học, sinh viên tổ chức đủ thứ buổi nói chuyện để giảng giải tại sao dính vô Việt Nam là sai trái. Chiến sự leo thang, chết chóc càng nhiều, phong trào phản chiến đâu còn chỉ ở trường học nữa mà lan ra khắp nơi, biểu tình toàn siêu to khổng lồ luôn. Thêm vào đó, có mấy sự kiện lớn khiến dân tình phẫn nộ, phản đối chiến tranh càng lúc càng dữ.
Năm 1966 tổng thống Johnson bãi bỏ quy định cho hoãn đi lính nếu đang học đại học, sinh viên biểu tình rần rần. Năm sau, lãnh tụ dân quyền Martin Luther King Jr. ra mặt công khai chống chiến tranh. Năm sau nữa, du kích miền Bắc đánh úp bất ngờ trong Tết Mậu Thân, người Mỹ mới tá hỏa nhận ra là Việt Cộng còn lâu mới thua, nên thôi thúc giục chính phủ Mỹ cuốn gói đi về đi! Cuối năm 1969, tin tức về vụ Thảm sát Mỹ Lai lộ ra, cả nước lại thêm một lần bàng hoàng, càng căm ghét chính quyền Nixon và quyết tâm “Mỹ cút khỏi Việt Nam”. Mùa xuân năm sau, cảnh vệ quốc gia Mỹ bắn chết sinh viên biểu tình tại trường đại học Kent State, sự việc này quá kinh khủng, khiến cho đa số dân Mỹ kiên quyết đòi chấm dứt cái trò đi đánh nhau vô nghĩa ở Việt Nam. Lúc này phe phản chiến thắng thế!