Lịch Sử Việt Nam

Chính sách với tướng sĩ Tây Sơn của vua Gia Long

Chính sách của Nguyễn Ánh đối với tướng sĩ Tây Sơn ngay sau khi chiếm Phú Xuân (1801) cho thấy sự khéo léo trong thu phục nhân tâm

gia long va tay son

Tác giả bài gốc: Tôn Thất Thọ

Blog Lịch Sử tổng hợp và biên soạn

Bài viết này tóm lược và phân tích các ghi chép từ “Đại Nam Thực Lục” (gọi tắt là Thực lục), liên quan đến cách thức Nguyễn Ánh (sau là vua Gia Long) thi hành chính sách đối với chỉ huy cùng binh lính Tây Sơn khi ông chiếm Phú Xuân năm 1801, rồi chính thức lên ngôi năm 1802. Qua đó, ta thấy được chính sách chiêu an, chiêu hàng mang tính chủ động, sắp xếp lại lực lượng quân sự và trọng dụng nhân tài của Nguyễn Ánh, cùng những lệnh cấm, biện pháp quản lý để ổn định đời sống xã hội thời bấy giờ.

Chiêu mộ

Sau khi chiếm Phú Xuân (13-6-1801), Nguyễn Ánh tập trung chiêu an đối với binh sĩ, tướng lĩnh nhà Tây Sơn. Đây là động thái rất quan trọng, giúp ông ổn định ngay vùng mới chiếm đóng và củng cố thế lực quân sự. Các trích dẫn từ Thực lục cho thấy Nguyễn Ánh nhanh chóng tổ chức lại hàng binh và tù binh Tây Sơn:

  • “Biên bổ tàn binh và hàng binh ở Thuận Hóa làm năm vệ: Thiện Võ, Kham Võ, Trang Võ, Túc Uy và Kiệu Uy thuộc Trung quân” (TL T2, tr. 401).
  • “1.000 binh Thuận Hóa và Bắc Hà bị bắt thì cho phân lệ vào quân ngũ, thẳng tiến đi Quảng Nam đánh giặc” (TL T2, tr. 406).
  • “Quân bọn Tống Viết Phúc, Lê Văn Duyệt và Lê Chất đến Quảng Ngải đánh bắt được đảng giặc… Binh lính bị bắt thì chia cho lệ về các vệ để thêm quân số” (TL T2, tr. 412).
  • “Nhà vua sai ba đội Tả vệ, Hữu vệ, Hoàng kiếm kén (chọn) hàng binh Thuận Hóa và Bắc Hà những người tinh tráng để bổ sung cho mỗi đội đủ số 120 hoặc 150 người” (TL T2, tr. 416).
  • “Liền bổ tù binh ở Quy Nhơn làm bốn vệ Quang Uy, Minh Uy, Nhuệ Uy và Tuyên Uy” (TL T2, tr. 417).
  • “Chi bổ sáu vệ quân mới hàng… nhanh vào tả đồn quân Ngự Lâm” (TL T2, tr. 427).
  • “Năm Tân Dậu, năm thứ 22 (1801) mùa thu, tháng 8, bổ quân mới hàng ở Bình Định làm vệ Trấn võ Tiền quân” (TL T2, tr. 430).
  • “Những người ở xa mới đến theo các hàng tướng có danh sắc thì đặt riêng làm Nghĩa Dũng Đoàn” (TL T2, tr. 433).
  • “Sai các đình thần Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi chiêu tập tàn quân của giặc Tây Sơn và mộ dân ngoại tịch để làm quân của dinh” (TL T2, tr. 456).

Ý tưởng mấu chốt ở đây là lập tức phân bổ, tổ chức lại lực lượng Tây Sơn vào bộ máy quân sự nhà Nguyễn. Một mặt, Nguyễn Ánh tiếp nhận nhân lực sẵn có để “tăng quân số” cho mình; mặt khác, ông thể hiện chính sách hòa hoãn, nhằm trấn an hàng binh, tránh tình trạng đối kháng tiếp diễn.
Chính điều này giúp ổn định ngay tình hình, bởi lực lượng Tây Sơn đã tan rã ở nhiều nơi, không còn điều kiện tập hợp để kháng cự.

Trọng dụng

Song song với việc đưa binh lính vào các vệ, đội thuộc quân triều Nguyễn, Nguyễn Ánh còn tiếp tục sử dụng một số quan lại, tướng lĩnh Tây Sơn ở nhiều cấp độ:

  • “Nội hầu giặc là Lê Văn Lợi, Thiếu úy Văn Tiến Thể, Phụng chính Trung thư Trần Văn Kỷ, Thượng thư Lại bộ Hồ Công Diệu và quan văn… quan võ… đua nhau đến quy thuận. Vua thấy đại thể mới định, sử dụng còn thiếu người, bèn cho được sai phái” (TL T2, tr. 403).
  • “Lấy cựu Đô đốc Nguyễn Văn Xuân làm Úy vệ Toàn võ Tả dinh Quân thân sách” (TL T2, tr. 436).
  • “Đại đô đốc giặc là Lê Đình Chính đem hơn quân cơ đến quân thứ Thanh Hảo đầu hàng… vua tha tội” (TL T2, tr. 451).
  • “Lê Văn Duyệt dâng sớ nói bọn ngụy Tri huyện ba huyện Bình Sơn, Khương Nghĩa, Mộ Hoa… xin theo họ giữ chức như cũ, Vua chuẩn y” (TL T2, tr. 457).
  • “Lê Văn Duyệt bắt được Đô đốc giặc là Trần Đại Cựu… Vua tha” (TL T3, tr. 14).

Có thể thấy, Nguyễn Ánh chủ trương “khoan hồng” với những người đã ra quy thuận, bao gồm cả các chức sắc cao như đô đốc, thượng thư, phụng chính… Đặc biệt, một số người được “tha tội” và vẫn cho giữ chức vụ tương tự hoặc bổ dụng vào một cương vị khác trong bộ máy. Điều này vừa giúp ông nhanh chóng có được kinh nghiệm của quan tướng Tây Sơn trong công cuộc quản lý địa phương, vừa ràng buộc họ dưới quyền lực triều Nguyễn, từ đó giảm nguy cơ “chống trả ngấm ngầm” về sau.

Trong Thực lục cũng ghi nhận những trường hợp khác:

  • “Vua ra lệnh thả Cao-La-Hàn-Sâm về nước, cho 30 lạng vàng, 300 lạng bạc, 3.000 quan tiền… trước kia Sâm đi theo đánh giặc, ngầm gởi thư cho tướng giặc là Trần Quang Diệu, vua bắt được… đến đây an ủi cho về” (TL T3, tr. 29).
  • “Vua thấy nước mới yên định, sổ sách tản mát… nghe Tư mã giặc là Nguyễn Văn Dạng từng coi việc hộ, bèn sai tường kê các ngạch thuế…” (TL T3, tr. 45).
  • “Trấn thủ Quảng Yên là Nguyễn Hữu Đạo bắt được Tư lệ giặc là Đinh Công Tuyết… vua cho là tướng giặc vô danh nên không nỡ giết mà tha cho” (TL T3, tr. 62).
  • “Bắc Thành đóng gông giải sứ thần của giặc Tây Sơn… Vua tha tội và cho về. Vợ lẽ của ngụy Nhạc, và người họ hàng tên Đại, tên Vạn… vua nói giết đi thì có ích gì…” (TL T3, tr. 544).

Những ghi chép trên phản ánh một tư duy khá rộng mở: Hễ không phải kẻ thù “trực tiếp nguy hiểm” thì vua Gia Long (Nguyễn Ánh) muốn tha để bày tỏ đức hiếu sinh, giảm nỗi lo sợ âm ỉ trong dân chúng và giới quan binh. Thậm chí, có nhiều trường hợp vua thưởng thêm tiền, bạc hoặc cho về nước.

Cơ sở của chính sách chiêu an

Không phải ai trong hàng tướng nhà Nguyễn cũng đồng tình với chủ trương khoan hồng, chiêu an. Một số người dâng biểu can gián, lo ngại rằng Tây Sơn giả hàng, đợi cơ hội “phản trắc”. Tuy nhiên, Nguyễn Ánh trả lời dứt khoát:

“Bọn khanh trình bày, cố nhiên là có ý phòng ngừa từ trước, nhưng từ khi ta lấy lại Phú Xuân, bọn tướng giặc đều hàng có, bắt được cũng có, ta đã tùy nghi xếp đặt, quân của chúng xen lẫn với quân ta, dưới quyền ta cai quản. Bọn chúng bất quá cai quản năm ba tên thuộc binh mà lệ theo súy phủ, phỏng có mang lòng phản trắc cũng không thi hành vào đâu…” (TL T2, tr. 404).

Ý kiến này cho thấy sự chủ động “cầm trịch” của Nguyễn Ánh trong vấn đề tổ chức quân đội: ông phân tán các hàng binh Tây Sơn, quy củ hóa, để “quân chúng xen lẫn với quân ta”. Mỗi tướng lĩnh hoặc chỉ huy khi được trọng dụng vẫn nằm trong sự giám sát chặt chẽ. Vì vậy, dù họ có ý đồ mưu phản, lực lượng không tập trung đủ để gây biến loạn đáng kể.

Một ví dụ cụ thể: Đại đô đốc đạo Tả bật Lê Doanh Phong dẫn hơn 300 quân đến đầu hàng. Nguyễn Đức Xuyên nghi ngại rằng Phong chưa chắc thật tâm. Nguyễn Ánh đáp: “Phong không đủ tin, ta đã riêng có cách ngăn ngừa” (TL T2, tr. 425). Qua đó, ta hiểu Nguyễn Ánh vốn sẵn có cơ chế đề phòng, song vẫn muốn thu phục nhân tài.

Bên cạnh đó, ông cũng dặn dò tướng lĩnh như Lê Văn Duyệt phải “cẩn thận xem xét ý tứ” các hàng tướng, “lòng người thật khó lường” (TL T2, tr. 418). Tức là chính sách chiêu an không phải mạo hiểm “thả lỏng” toàn bộ, mà luôn đi kèm hệ thống quản lý nghiêm túc.

Bảo vệ hàng binh và người dân

Khi dùng binh Tây Sơn, Nguyễn Ánh hiểu rõ cần tránh xung đột, tranh chấp tài sản để tránh “tự làm loạn” từ bên trong. Thực lục ghi:

“Phàm quan quân giặc đã quy thuận, hoặc còn ở Quy Nhơn hay Bắc Thành, thì nhà cửa, vườn tược của họ phải để cho vợ con họ hàng ở, không được lấn cướp… Làm trái thì xử nghiêm theo quân pháp” (TL T2, tr. 432).

Đây là chi tiết quan trọng thể hiện ý thức gìn giữ trật tự xã hội của Nguyễn Ánh. Ông không muốn đội quân của mình, hay quan lại địa phương, mượn cớ “giặc cũ” để chiếm đoạt tài sản, dẫn đến người dân oán thán.
Chính điều này hỗ trợ chính sách hòa hoãn: Những binh lính, tướng lĩnh Tây Sơn ra hàng cảm thấy an tâm, không lo bị chiếm đoạt tư gia. Mâu thuẫn lợi ích được giảm thiểu, tạo bầu không khí tương đối ổn định nơi vùng mới thu phục.

Đối với danh sĩ và nhân sĩ nổi tiếng

Một trường hợp nổi bật là La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp – thường được xem như “Gia Cát Lượng” của vua Quang Trung, làm Viện trưởng Viện Sùng Chính năm 1790, từng đóng góp vào chính sách giáo dục, văn hóa cho triều Tây Sơn. Khi Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân, Nguyễn Thiếp ở lại mà không chạy theo vua Cảnh Thịnh. Thực lục ghi:

“Thả xử sĩ ở Nghệ An là Nguyễn Thiếp về. … Tới nay vào yết kiến, xin trở về làng. Vua dụ rằng ‘Khanh là người tuổi tác, đạo đức, rất được người ta trông cậy. … nên khéo léo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta’” (Thực lục I, tr. 445).

Nguyễn Ánh không chỉ tha, mà còn khuyến khích Nguyễn Thiếp tiếp tục “đào tạo nhân tài”. Đây là một biểu hiện của lòng trọng đãi kẻ sĩ, đặc biệt là những người có danh tiếng lớn, giúp củng cố nền học vấn của triều Nguyễn sau này.

Đối với họ Trịnh

Mâu thuẫn Trịnh – Nguyễn kéo dài hơn 45 năm, từng chia cắt Đàng Trong và Đàng Ngoài. Thế nhưng, sau khi lên ngôi và làm chủ Bắc Hà, vua Gia Long không truy diệt họ Trịnh. Trái lại, ông ra lệnh:

“Sai chọn người dòng dõi họ Trịnh để giữ việc thờ cúng họ Trịnh… ‘Tiên đế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. … nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, … nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên… họp chọn lấy một người trưởng họ, giữ việc thờ cúng để giữ tình nghĩa đời đời’” (Thực lục I, tr. 508).

Kết quả:

  • Trịnh Tư được giao lo việc thờ cúng.
  • Họ Trịnh được cấp 500 mẫu ruộng lấy huê lợi, 247 người họ Trịnh được xét tha thuế, miễn binh dao (tức miễn sưu dịch, đi lính).

Như vậy, mâu thuẫn “Trịnh – Nguyễn” suốt hàng chục năm cuối cùng đã được xóa nhòa bằng hành động thực tế. Gia Long nhìn nhận quá khứ “Nam Bắc chia đôi” như sự việc của “người trước”, đồng thời khéo léo củng cố uy tín chính trị của mình. Ông muốn người dân Bắc hà thấy rằng quyền lợi của họ vẫn được tôn trọng, và bản thân vua Gia Long không mưu cầu trả thù dòng họ cũ.

Đọc thêm:

Nhận định

Quan sát toàn bộ các trích dẫn và sự việc nêu trên, có thể rút ra một số điểm quan trọng:

  1. Chiêu an để giảm kháng cự, tận dụng nhân lực: Nguyễn Ánh gấp rút tuyển mộ, sắp xếp binh sĩ Tây Sơn vào hàng ngũ mình; sử dụng quan lại, tướng lĩnh cũ của Tây Sơn ở nhiều vị trí. Điều này giúp ổn định vùng mới chiếm, đồng thời không tốn nhiều thời gian đào tạo lại lớp quan lại mới.
  2. Chủ trương khoan dung nhưng không thả lỏng: Ông liên tục “tha tội” cho các tướng lĩnh, sứ thần Tây Sơn, nhưng song song là các biện pháp “ngăn ngừa, theo dõi” khá chặt chẽ. Cách thức “quân lẫn quân”, “phân chia, kiểm soát” khiến bất kỳ âm mưu phản loạn nào cũng khó thực thi.
  3. Bảo vệ tài sản, duy trì trật tự xã hội: Việc cấm chiếm đoạt nhà cửa, vườn tược của hàng binh, quan quân giặc cũ thể hiện tầm nhìn lâu dài: muốn thu phục lòng người, tránh hỗn loạn sau chiến tranh. Cũng nhờ vậy, người Tây Sơn cũ dần an tâm, sẵn lòng hợp tác hơn.
  4. Tận dụng và trọng đãi nhân tài: Trường hợp Nguyễn Thiếp hay nhiều quan chức, tướng lĩnh Tây Sơn được giao chức vụ phù hợp, thậm chí được khuyến khích làm việc. Điều này góp phần hạn chế “chảy máu chất xám” và tạo ra dàn công thần mới, gắn bó với Gia Long.
  5. Hòa giải với các thế lực đối địch khác: Với họ Trịnh, mối hiềm khích giữa Trịnh – Nguyễn vốn lâu dài, Gia Long cũng dứt khoát theo đường lối hòa giải, nêu cao “mối tình thích thuộc”. Động tác vừa mang tính biểu tượng, vừa có giá trị thực tiễn (cho ruộng đất, miễn thuế, miễn binh).

Chính sách ấy không khỏi gây tranh cãi: Có quan điểm cho rằng Nguyễn Ánh “quá dung thứ” cho tướng Tây Sơn, hoặc lo ngại rằng ông trả ơn người Pháp quá lớn (dù không nằm trong những trích dẫn Thực lục nêu trên). Tuy nhiên, từ các ghi chép chi tiết, rõ ràng Gia Long đã vận dụng các biện pháp chặt chẽ, hạn chế tối đa mầm mống phản loạn.

Tác động của chính sách chiêu an

Sau năm 1802, khi lên ngôi, Gia Long phải đối mặt với việc quản lý một đất nước vừa thoát cảnh phân tranh, ranh giới vùng miền còn rất sâu sắc. Nhà Tây Sơn tuy sụp đổ nhưng dư đảng vẫn rải rác khắp nơi, một số tướng sĩ chưa chịu phục. Chiến dịch tuyển mộ tù binh, hàng binh với số lượng lớn và tiếp tục “trọng dụng” quan viên Tây Sơn là chính sách then chốt để:

  • Bù đắp phần thiếu hụt binh lực, bởi quân nhà Nguyễn cũng đã hao tổn sau nhiều năm chinh chiến.
  • Lập lại trật tự nhanh chóng, vì cần “cái khung” quan chức, tướng lĩnh đã quen quản trị địa phương.
  • Tránh lãng phí nguồn nhân sự, “chặn đường” các nhóm tàn quân tạo phản.
  • Thể hiện uy quyền và lòng khoan dung của tân vương, người muốn “thống nhất lòng người”.

Vì vậy, có thể nhận định: Chiêu an hàng binh – hàng tướng, phong chức cho các cựu quan Tây Sơn, bảo vệ quyền lợi kinh tế của họ, là một trong những lý do quan trọng giúp Gia Long nhanh chóng củng cố chính quyền. Từ phương diện chính trị – quân sự, ông đã dung hợp giữa “khuyên hàng” và “răn đe”, giữa “khoan hồng” và “giám sát”.

Kết luận

Qua các trích dẫn từ “Đại Nam Thực Lục” và những phân tích ở trên, chính sách của Nguyễn Ánh đối với tướng sĩ Tây Sơn ngay sau khi chiếm Phú Xuân (1801) cho thấy sự khéo léo trong thu phục nhân tâm, sắp xếp lực lượng và thống nhất đất nước. Chính điều này đã góp phần quan trọng vào việc ổn định trật tự xã hội sau khi ông lên ngôi Gia Long năm 1802.

Rate this post

Chúng tôi không có quảng cáo gây phiền nhiễu. Không bán dữ liệu. Không giật tít.
Thay vào đó, chúng tôi có:

  • Những bài viết chuyên sâu, dễ đọc
  • Tài liệu chọn lọc, minh bạch nguồn gốc
  • Niềm đam mê bất tận với sự thật lịch sử
DONATE

Toàn bộ tiền donate sẽ được dùng để:

  • Nghiên cứu – Mua tài liệu, thuê dịch giả, kỹ thuật viên.
  • Duy trì máy chủ và bảo mật website
  • Mở rộng nội dung – Thêm nhiều chủ đề, bản đồ, minh họa

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM