Lịch Sử Việt Nam

Chúa Nguyễn Hoàng: “Từ thuở mang gươm…”

Tiên Chúa Nguyễn Hoàng được dân tộc ghi nhớ với công lao mở cõi miền Nam.

chua tien hoang khai pha mien nam

Trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, công cuộc mở đất về phương Nam được coi là một trong những dấu ấn hết sức quan trọng. Nhờ vào quá trình đó, lãnh thổ Việt Nam dần mở rộng, nền kinh tế từng bước phát triển, đồng thời bản sắc văn hóa dân tộc cũng được mở rộng và giao thoa với các tộc người trên vùng đất mới. Chúng ta có được thành tựu lớn ấy một phần nhờ vào công lao to lớn của người khởi nghiệp Đàng Trong – Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Qua hơn bốn thế kỷ, bóng dáng và tầm vóc của vị chúa Nguyễn đầu tiên vẫn in đậm trong tâm thức người Việt, đặc biệt ở đất Thuận – Quảng, nơi ông bắt đầu dựng cơ đồ, “mở cõi” vững bền cho hậu thế.

Dưới đây, chúng ta sẽ cùng nhìn lại buổi đầu dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng, qua đó thấy được bối cảnh lịch sử phức tạp lúc bấy giờ, nhận diện rõ hơn con người và sự nghiệp vị chúa này, cũng như ý nghĩa sâu xa của công cuộc “Nam tiến” trong lịch sử dân tộc.

Bản đồ mô tả quá trình Nam tiến của người Việt,
Bản đồ mô tả quá trình Nam tiến của người Việt, Nguyễn Hoàng vùng đất màu xanh lục đậm và xanh lục. (Wikipedia)

Gốc tích chúa Nguyễn Hoàng

Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) là con thứ hai của danh tướng Nguyễn Kim. Thân mẫu của ông vốn là con gái vị quan họ Nguyễn (được ghi nhận là Đặc Tiến Phụ quốc thượng tướng quân). Ông sinh tại Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn (nay thuộc Hà Trung, Thanh Hóa). Đến năm 1527, triều Mạc giành ngôi vua Lê, cha ông là Nguyễn Kim phải đưa gia quyến chạy sang Ai Lao (Lan Xang) để mưu phục nhà Lê. Khi đó, Nguyễn Hoàng chỉ mới 2 tuổi, được cậu ruột là Thái phó Nguyễn Ư Dĩ đón về nuôi dạy.

Từ năm 1540, Nguyễn Kim bắt đầu đưa quân trở lại chiếm Nghệ An, rồi chiếm Thanh Hóa, chính thức lập “Nam triều” (nhà Lê trung hưng) nhằm chống lại “Bắc triều” nhà Mạc ở Thăng Long. Đến năm 1545, ông bị tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc. Quyền hành rơi vào tay Trịnh Kiểm (con rể Nguyễn Kim), khiến cho con trai trưởng Nguyễn Uông bị sát hại. Lo sợ bị diệt trừ tiếp, năm 1558, Nguyễn Hoàng nhờ chị ruột (Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm) xin vào trấn thủ Thuận Hóa. Đây là bước ngoặt mở đầu cho công cuộc “Nam tiến” của họ Nguyễn.

Khi quân Mạc tấn công mạnh Thanh – Nghệ, Chúa Trịnh Kiểm thấy cần dồn quân chủ lực bảo vệ Tây Đô, nên bổ nhiệm Nguyễn Hoàng kiêm quản cả Quảng Nam. Năm 1572, tướng Mạc là Lập Bạo mang quân đường biển đánh Thuận – Quảng, Nguyễn Hoàng lập mưu giết được Lập Bạo, lập đại công nên được phong lên Thái phó (1573). Từ 1593, ông nhiều lần đem quân ra Bắc giúp Lê – Trịnh đánh tàn dư họ Mạc và được phong Thái uý Đoan Quốc công.

Tuy nhiên, mầm mống nghi kỵ giữa chúa Trịnh và Nguyễn Hoàng vẫn không nguôi. Từ 1593 đến 1600, ông bị “giữ chân” ở đất Bắc suốt 7 năm. Nhân lúc đất Bắc có loạn, năm 1600, Nguyễn Hoàng bí mật rút quân vào Thuận – Quảng, để con thứ 5 cùng cháu ở lại làm con tin, đồng thời gả con gái cho Trịnh Tráng. Ở Đàng Trong, ông củng cố chính quyền, mộ dân khai hoang, phát triển ngoại thương, xây dựng công trình tôn giáo, tổ chức đồn lũy phòng thủ, tạo nền tảng cho một chính quyền độc lập tương đối.

Chúa Nguyễn Hoàng mất năm 1613, hưởng thọ 89 tuổi. Ông truyền lại cơ nghiệp cho con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên, để tiếp tục củng cố và mở rộng bờ cõi. Công lao của vị chúa Nguyễn đầu tiên gắn liền với việc xây dựng nên “cơ nghiệp phương Nam”, đặt móng cho Đàng Trong hùng mạnh hàng trăm năm về sau.

Xu hướng Nam tiến

Trong khi nước Đại Việt thế kỷ XVI – XVII phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Ai Lao với dãy Trường Sơn chắn ngang, phía Đông ra biển, và phía Nam giáp Champa, thì “Bắc tiến” gần như không khả thi bởi sức ép của “Thiên triều” phương Bắc. Chính sách “bành trướng” về phía Lào cũng chẳng thuận lợi, vì đất Ai Lao (Lan Xang) cũng bị tranh chấp với Xiêm – Miến. Con đường duy nhất có vẻ khả thi chính là “Nam tiến” – vượt qua dải đất Thuận Quảng, nắm lấy vùng “Ô Châu ác địa” tuy còn hoang vu nhưng giàu tiềm năng.

“Ô Châu ác địa” xưa kia thuộc Champa, đến thế kỷ XVI – XVII vẫn được người đương thời xem là đất “xa xôi biên viễn”, nơi đày ải tội phạm. Mặc dù kinh tế địa phương còn lạc hậu, nhưng đất đai lại rộng, khí hậu phù hợp cho nông nghiệp, cùng địa thế núi – đèo – biển đan xen có thể lập căn cứ quân sự vững chắc. Tất cả điều đó khiến việc “Nam tiến” dần trở thành xu thế chủ đạo, vừa để phát triển kinh tế nông nghiệp, vừa để bảo tồn sức mạnh dân tộc trước nguy cơ chiến tranh liên miên phía Bắc.

Các lưu dân Việt vào Nam mang theo không chỉ là truyền thống văn hóa Nho – Lão – Phật, mà còn cả đức tính can trường, cần cù, khéo léo vốn có của dân tộc. Sự thông minh, lòng nhân ái, hiếu học, biết giữ kỷ luật… tất cả đã giúp người Việt từng bước chinh phục vùng đất mới, thiết lập cuộc sống trù phú và dần định hình cương vực rộng lớn. Nam tiến không chỉ là cuộc di dân đơn thuần, mà còn là quá trình “đổi mới sức sống dân tộc”, liên tục tiếp biến với văn hóa Champa, Chân Lạp, tạo nên bản sắc đặc trưng Đàng Trong.

Thực tế, cuộc phân tranh Nam – Bắc triều kéo dài hàng chục năm làm tàn phá đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, đẩy người dân Thanh – Nghệ, Tống Sơn… vào cảnh loạn lạc, đói kém. Một bộ phận lớn dân chúng tìm đường vào vùng “biên viễn” Thuận Hóa, Quảng Nam để mưu sinh. Đối với Nguyễn Hoàng, bối cảnh ấy là điều kiện rất thuận lợi. Ông vừa thỏa sức xây dựng chính quyền riêng, vừa đón nhận lưu dân, phát triển kinh tế, củng cố căn cứ “Ô Châu ác địa” thành tiền đồn vững chắc cho kế hoạch lâu dài.

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

Trạng Trình (1491 – 1585), tên thật là Nguyễn Bỉnh Khiêm, đỗ Trạng Nguyên năm 1535 dưới triều Mạc, sau xin từ quan về quê dạy học. Đương thời, ông vừa được chúa Trịnh xem như “cố vấn”, vừa được chúa Nguyễn cử người đến hỏi han đại sự. Trong lịch sử, ông nổi tiếng vì những “lời sấm” giàu tính tiên tri.

  • Khi Trịnh Kiểm muốn tiếm ngôi nhà Lê, ông khuyên nên “tìm giống cũ mà gieo”, ám chỉ nên tìm con cháu vua Lê để lập. Từ đó, Trịnh Kiểm từ bỏ dã tâm lật đổ nhà Lê, giữ yên nội bộ Nam triều.
  • Khi Nguyễn Hoàng lo sợ bị ám hại, ông khuyên “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (“một dải Hoành Sơn có thể yên thân muôn đời”), ngụ ý hãy vào đất Thuận Hóa, tránh xa quyền lực họ Trịnh.

Không thể nói Nguyễn Hoàng chỉ quyết định vào Nam dựa trên một câu sấm, nhưng lời khuyên của Trạng Trình đã góp phần quan trọng khơi mở hướng đi. Dù “lời sấm” còn mang màu sắc huyền bí, sử gia đời sau chưa thể kiểm chứng đến nơi đến chốn, nhưng xét trong bối cảnh lịch sử, sự gợi ý ấy như một “cẩm nang” để Nguyễn Hoàng dứt khoát “Nam tiến”, tránh họa sát thân, kiến lập cơ đồ lâu dài.

Con người chúa Nguyễn Hoàng

Nguyễn Hoàng không chỉ là vị tướng cầm quân giỏi, mà còn là nhà chính trị khôn ngoan. Năm 1558, khi đến trấn giữ Thuận Hóa, ông mang theo đại gia tộc ở Tống Sơn cùng một số tướng cũ của cha (Nguyễn Kim), cộng thêm nhiều nghĩa dũng ở Thanh – Nghệ. Đây là quyết định sáng suốt: đối mặt với vùng đất “ác địa”, ông cần đội ngũ thân tín, trung thành.

Để tránh tai mắt của Trịnh Kiểm, ông khôn khéo dùng quan hệ gia đình (nhờ chị ruột xin vào Thuận Hóa) để “lánh nạn”. Về sau, khi lập công đánh Mạc, ông cũng cố ý “góp sức” cho chúa Trịnh để thể hiện lòng trung, nhằm giảm thiểu nghi ngờ. Song đến khi sự nghi ngại của Trịnh Tùng (con Trịnh Kiểm) ngày càng lớn, ông lại “mượn cớ nổi loạn” để âm thầm rút về Thuận – Quảng năm 1600, để con cháu làm con tin, gả con gái cho Trịnh Tráng, vừa mua thời gian, vừa tập trung xây dựng lực lượng tại đất phương Nam.

Mưu lược và tầm nhìn chiến lược:

  • Năm 1572, tướng Mạc Lập Bạo dẫn quân theo đường biển tấn công. Nguyễn Hoàng tương kế tựu kế, dùng “mỹ nhân” dâng vàng bạc giả cầu hòa, đợi Lập Bạo mất cảnh giác rồi đánh úp, giết tướng Mạc.
  • Năm 1593, sau khi Trịnh Tùng đánh chiếm Thăng Long, Nguyễn Hoàng đưa quân ra Bắc diệt dư đảng họ Mạc, được phong chức to. Rồi ông ở lại đất Bắc những 7 năm. Đến năm 1600, lợi dụng lúc loạn lạc, ông giả vờ “đi dẹp loạn” nhưng kỳ thực là rút quân thẳng vào Thuận Hóa, cắt đứt sự kiềm tỏa của họ Trịnh.
  • Trong 55 năm cai trị (1558 – 1613), ông không ngừng củng cố nền móng cho vùng Thuận – Quảng: xây đồn lũy phòng bị, mộ dân khai hoang, phát triển ngoại thương, lập chợ, tổ chức bộ máy cai quản, sẵn sàng cho kịch bản “độc lập” với Đàng Ngoài.

Đức độ và khả năng thu phục nhân tâm

Suốt thời gian trấn thủ ở xứ Thuận Quảng, chúa Nguyễn Hoàng thi hành chính sách khuyến khích khẩn hoang, cấp lương thực, nông cụ cho lưu dân, cho cả tù binh biến họ thành lực lượng khai phá. Ông cũng đối đãi hòa hoãn với người Champa, tôn trọng phong tục của họ, dần đưa Thuận – Quảng thành đất phồn vinh. Những nhân tài như Nguyễn Hữu Dật, Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến… lần lượt về “phò chúa” cũng bởi tin tưởng vào tấm lòng, đức độ của Chúa Tiên.

Năm 1613, trước lúc mất, Nguyễn Hoàng dặn con phải thương dân, luyện binh, đồng thời lưu ý rằng Thuận – Quảng có thế núi sông hiểm yếu, hãy chăm lo để “cơ nghiệp muôn đời”. Quả thực, người dân Đàng Trong sau này vẫn ghi nhớ công ơn, tôn ông là “Chúa Tiên” – vị chúa mở đầu triều Nguyễn, đặt nền tảng hưng thịnh lâu dài.

Công lao mở cõi

Khi vừa nhận nhiệm vụ trấn thủ, Nguyễn Hoàng chọn Ái Tử (Quảng Trị) làm dinh ban đầu. Đến năm 1570, dời sang Trà Bát cũng ở Quảng Trị. Sau này, con ông là Nguyễn Phúc Nguyên tiếp tục chuyển dần vào trong, cuối cùng dinh cơ được đặt tại Phú Xuân (Huế) năm 1687, về sau thành kinh đô của cả triều Nguyễn (1802 – 1945).

Trong quá trình ấy, chúa Nguyễn Hoàng thiết lập bộ máy quản lý, củng cố luật pháp, xây đồn lũy nhằm bảo vệ vững chắc Đàng Trong. Song song với đó là “chiêu mộ dân nghèo, khuyến khích khai khẩn đất đai, cho lập ruộng tư”, biến vùng hoang vu thành những đồng ruộng phì nhiêu.

Trong sử liệu, Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn nhận định chính sách cai trị thời Chúa Tiên ở Thuận Quảng “khoan hòa, công bằng, răn cấm kẻ hung dữ, quan dân yên ổn, thuyền buôn tấp nập, quân kỷ nghiêm minh, không ai lừa dối được”. Nhờ đó, lãnh thổ Đàng Trong sớm trở nên trù phú, có thể gánh vác chi phí chiến sự cho Nam triều, đồng thời khẳng định vị thế độc lập trước họ Trịnh.

Chúa Tiên còn chú trọng xây dựng chùa chiền, tiêu biểu là chùa Thiên Mụ (khởi dựng năm 1601). Đây không chỉ là công trình tôn giáo lớn, mà còn mang ý nghĩa chính trị – văn hóa, giúp thuần hóa dân chúng, nhất là các cộng đồng gốc Champa, vốn chịu ảnh hưởng lâu đời của Hindu giáo. Từ đó, văn hóa Việt và văn hóa Chăm bước vào quá trình tiếp biến dần dần, hình thành bản sắc riêng ở Đàng Trong.

Mở rộng lãnh thổ về phía Nam:

  • Năm 1611, quân Champa quấy nhiễu biên giới, Chúa Tiên cử Chủ sự Văn Phong vượt đèo Cù Mông (giữa Bình Định – Phú Yên) đánh dẹp, lập Phủ Phú Yên.
  • Về sau, các chúa nối đời ông (Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Chu, v.v.) tiếp tục chính sách Nam tiến, thông qua cả con đường chinh phạt lẫn ngoại giao hôn nhân với Champa, Chân Lạp. Tiêu biểu là việc công chúa Ngọc Vạn gả cho vua Chân Lạp Chey Chetta II (1620), hay công chúa Ngọc Khoa gả vua Champa Pôrômê (1631). Các cuộc hôn nhân này giúp mở rộng ảnh hưởng, hình thành các vùng đất “châu” mới sát nhập vào Đàng Trong.

Như vậy, “đế nghiệp phương Nam” khởi đầu từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, và các chúa đời sau tiếp tục kế thừa, tạo nên cương vực Việt Nam mở rộng về phía Nam cho đến tận Đồng bằng sông Cửu Long. Tiến trình ấy gắn liền với hàng loạt sự kiện quân sự, ngoại giao, kinh tế và văn hóa.

Đánh giá lịch sử

Có ý kiến cho rằng chính quyền chúa Nguyễn cát cứ Đàng Trong, tách khỏi vua Lê – chúa Trịnh, dùng bạo lực để xâm lấn Champa, Chân Lạp, là hành động hiếu chiến, gây xung đột dân tộc. Song, nếu xét toàn cục lịch sử, ta thấy áp lực “nồi da xáo thịt” thời Nam – Bắc triều, cộng thêm nguy cơ bị chúa Trịnh diệt trừ, khiến Chúa Tiên bắt buộc phải tìm đường sống ở phía Nam. Bên cạnh đó, đây cũng là xu thế mở rộng để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, thậm chí tạo nên văn hóa hòa trộn (Việt – Chăm – Khmer). Việc sử dụng bạo lực chống lại sự uy hiếp từ Bắc triều hoặc từ các thế lực địa phương khác, trong hoàn cảnh ấy, có thể xem như “con đường duy nhất”.

Có trường hợp chúa Nguyễn Hoàng đối xử khắc nghiệt với sứ giả từ họ Trịnh (như chuyện cướp chiếu thư của Lê Nghĩa Trạch năm 1600), hoặc về sau các chúa Nguyễn cũng nhiều lần giao chiến kịch liệt cùng Đàng Ngoài. Tuy nhiên, ta khó có thể tránh khỏi những khiếm khuyết, sai lầm trong bối cảnh cạnh tranh quyền lực thời phong kiến.

Nhìn chung, giới nghiên cứu lịch sử đánh giá Nguyễn Hoàng là nhân vật kiệt xuất: một mặt ông có tầm nhìn xa, khéo léo ứng biến, xây dựng cơ sở Đàng Trong trở thành thế lực vững vàng; mặt khác, chính sách khoan hòa, khuyến khích khai hoang, phát triển thương nghiệp và xây dựng các công trình tôn giáo đã giúp Đàng Trong mau chóng phồn vinh. Sử gia Trần Trọng Kim từng tóm tắt công lao họ Nguyễn ở phía Nam như sau: “Còn những công việc họ Nguyễn làm ở phía Nam quan trọng cho nước Nam hơn cả, là việc mở mang bờ cõi, khiến cho nước lớn hơn, người đông ra… ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lắm vậy.”

Tóm lược

Có thể nói, hơn 400 năm trước, Nguyễn Hoàng đã dấn thân vào vùng đất Thuận – Quảng, được coi là “biên viễn xa xôi” để dựng nghiệp, đánh dấu buổi đầu công cuộc Nam tiến chính thức của nhà Nguyễn. Quá trình này phản ánh xu thế tất yếu của dân tộc trong việc mở cõi về phương Nam, góp phần tạo lập nên hình hài đất nước Việt Nam trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, từ những cao nguyên miền Trung đến các hải đảo xa xôi.

Sự nghiệp của chúa Tiên Nguyễn Hoàng cũng cho thấy bài học quý giá về tầm nhìn chiến lược, về nghệ thuật quản lý và cả tính cách khoan hòa đối với cư dân địa phương. Ông đã thể hiện bản lĩnh ứng biến khôn ngoan giữa lúc đất nước chìm trong phân tranh Nam – Bắc triều, tận dụng được dòng người di cư và thế đất phương Nam rộng rãi để xây nên cơ đồ bền vững. Từ đó, Đàng Trong phát triển kinh tế, văn hóa, mở rộng giao thương, đồng thời giành lấy thế độc lập, sánh ngang với Đàng Ngoài của chúa Trịnh.

Ngày nay, nhìn lại những dấu ấn mà Chúa Tiên cùng các chúa nối tiếp để lại trong suốt hành trình Nam tiến, ta càng thấm thía về tinh thần tiên phong, về sự hòa hợp, tiếp biến văn hóa, về tầm vóc và sức sống mãnh liệt của dân tộc trước muôn vàn khó khăn thử thách. Công cuộc mở cõi không chỉ đem lại sự phồn thịnh cho đất nước, mà còn định hình rõ nét thêm bản sắc văn hóa Việt Nam đa dạng, thống nhất trong cộng đồng các dân tộc.

Như thế, nói đến Chúa Nguyễn Hoàng là nhắc đến người mở đường cho một giai đoạn lịch sử sôi động, mang dấu ấn quyết định trong tiến trình dựng nước và giữ nước. Chính ông, với ý chí và nghị lực phi thường, cùng khả năng quy tụ lòng người, đã góp phần quan trọng tạo nên “mảnh đất phương Nam” giàu có, trù phú, sẵn sàng trở thành nôi văn hóa, kinh tế – xã hội cho nhiều thế kỷ kế tiếp. Sự tri ân dành cho Chúa Tiên, vì vậy, không chỉ dừng lại ở những đền thờ hay trang sử, mà còn hiện diện trong nếp sống, trong tâm thức của bao thế hệ người dân Việt, đặc biệt ở dải đất Thuận Quảng và khu vực Nam Bộ ngày nay.

Tài liệu tham khảo
(1) Tài liệu cũ ghi rõ, sau khi Nguyễn Hoàng mất, được truy tôn Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế.
(2), (3) … Trích dẫn các công trình nghiên cứu lịch sử về Nam – Bắc triều, Champa, Thuận Quảng, như Phủ Biên tạp lục (Lê Quý Đôn), Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim), v.v.
(4) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Chương nói về tính cách người Việt Nam.
(5), (6) Dẫn lại lời đánh giá chung về xu hướng Nam tiến, từ các khảo cứu về di dân, văn hóa Việt.
(7), (8) Ghi chép trong chính sử về lời sấm Nguyễn Bỉnh Khiêm.
(9), (10), (11) Sử sách triều Nguyễn.
(12) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, các chương viết về nội chiến Trịnh – Nguyễn.
(13) Quan điểm luận giải bạo lực trong bối cảnh lịch sử của nhiều nghiên cứu hiện đại.
(14) Ghi chép thời Lê – Trịnh về sự kiện Lê Nghĩa Trạch.
(15) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Lời nhận xét về công lao của họ Nguyễn.
(16), (17), (18), (19), (20), (21), (22) Đa dạng nguồn gốc từ sử liệu, luận văn nghiên cứu về quá trình người Việt khai phá phương Nam, về quan hệ với Champa, Chân Lạp.

5/5 - (2 votes)

ĐỌC THÊM

Kim Lưu
Chào mọi người, mình là Kim Lưu, người lập Blog Lịch Sử này. Hy vọng blog cung cấp cho các bạn nhiều kiến thức hữu ích và thú vị.