Tư Liệu

Toàn văn City of God – Thánh Augustino – Bản dịch tiếng Việt

Bản dịch tiếng Việt toàn văn tác phẩm City of God (Thành Đô Thiên Chú) của Thánh Augustino, một tác phẩm trứ danh của ngài.

Nguồn: Biên Soạn
toan van city of god ban tieng viet

Quyển I

Mở đầu: Thành phố vinh hiển của Thiên Chúa

Thành phố vinh hiển của Thiên Chúa là chủ đề tôi theo đuổi trong tác phẩm này – như lời gợi ý của con, người con thân yêu Marcellinus, và cũng là điều tôi đã hứa với con.

Tôi viết nên công trình này để bảo vệ thành phố ấy khỏi những lời công kích của những kẻ ưa chuộng các vị thần của họ hơn là Đấng Sáng Lập đích thực – Đấng dựng nên một thành phố rực rỡ vinh quang, vượt lên mọi thành trì trần thế. Dù nhìn vào thành phố ấy khi nó đang sống bằng đức tin giữa dòng thời gian phù du này, như một kẻ lữ hành giữa thế gian vô đạo, hay khi nó sẽ được an cư vĩnh viễn nơi ngai vị muôn đời – thì ánh sáng vĩnh cửu của nó vẫn luôn chói lọi.

Giờ đây, thành phố ấy kiên nhẫn chờ đợi, hy vọng ngày công lý trở lại để phán xét (Thánh Vịnh 94:15), và đến cuối cùng, nhờ sự công chính của mình, nó sẽ được ban chiến thắng hoàn toàn và bình an tuyệt đối.

Đây là một công trình to lớn và gian nan. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trợ giúp tôi. Tôi hiểu rằng: cần phải có một khả năng thuyết phục sâu sắc để khiến người kiêu ngạo nhận ra giá trị của đức khiêm nhường – một đức tính không nâng con người lên bằng ngạo mạn nhân loại, mà bằng ân sủng Thiên Chúa – vượt lên trên mọi quyền lực trần thế vốn luôn bấp bênh trên cõi tạm.

Bởi vì Vua và Đấng Sáng Lập của thành phố mà tôi đang nói đến đã phán trong Kinh Thánh với dân của Ngài một điều luật thiêng liêng rằng:

“Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.”
(Thư Giacôbê 4:6, Thư Phêrô I 5:5)

Ấy vậy mà điều vốn là đặc quyền của Thiên Chúa lại chính là điều mà lòng kiêu hãnh phàm trần cũng thèm khát. Linh hồn ngạo mạn luôn mong mỏi được gán cho đặc ân ấy:

“Tỏ lòng thương xót với kẻ bị hạ mình,
Và nghiền nát những đứa con kiêu căng.”

Chương 1 – Về những kẻ chống đối danh Chúa Kitô, dù chính họ đã được quân man rợ tha mạng vì danh Ngài

Chính những kẻ thù của Thành phố Thiên Chúa cũng thuộc về thành phố trần gian mà tôi đang phải đối mặt trong tác phẩm này. Trong số đó, nhiều người đã từ bỏ lối sống vô đạo và trở thành công dân đáng kính của Thành phố Thiên Chúa. Nhưng cũng có không ít kẻ mang lòng thù hận dữ dội với thành phố này, đến mức họ quên mất rằng: chính nhờ các đền thánh của Kitô giáo mà họ đã thoát khỏi lưỡi gươm của quân thù, có được mạng sống mà giờ đây họ đang dùng để bôi nhọ đức tin Kitô.

[Augustinô đang nói đến cuộc xâm lược thành Rome năm 410 bởi Alaric – vua của người Visigoth. Alaric theo thuyết Ariô và được xem là nhân đạo nhất trong số các thủ lĩnh man rợ.]

Há chẳng phải chính những người La Mã được tha mạng nhờ danh Chúa Kitô lại quay lưng chống đối danh ấy sao? Các đền thờ thánh tử đạo và các nhà thờ Tông đồ là nhân chứng sống cho điều này – bởi trong cơn bão loạn khi thành bị cướp phá, những nơi ấy mở cửa đón nhận bất kỳ ai chạy đến nương náu, dù là Kitô hữu hay ngoại đạo. Quân thù – vốn khát máu – chỉ dừng lại trước ngưỡng cửa các nơi ấy, như thể có một giới hạn vô hình ngăn chặn cơn thịnh nộ.

Ngay cả những chiến binh có chút lòng thương cũng đưa người trú ẩn trong nhà thờ đến nơi an toàn hơn, tránh để họ bị đồng đội tàn nhẫn hơn sát hại. Và thật đáng kinh ngạc: khi đến gần các thánh đường – những nơi mà lẽ ra chiến tranh không tha – thì ngay cả những tên giết người tàn bạo nhất cũng kìm hãm cơn điên cuồng của mình, không còn hứng thú bắt người hay chém giết.

Ấy vậy mà chính những người đã được tha mạng trong hoàn cảnh đó, nay lại lớn tiếng đổ lỗi cho Kitô giáo, cho rằng những tai ương thành Rome là do Đức Kitô mang đến. Họ chối bỏ Đấng đã cứu mạng mình và gán sự sống còn cho cái gọi là “vận may”. Nhưng nếu còn chút lương tri, họ hẳn phải nhìn nhận rằng: những khổ đau họ phải chịu là hình phạt đến từ sự Quan Phòng của Thiên Chúa – Đấng dùng thử thách để thanh luyện tâm hồn, sửa dạy kẻ sa ngã và tôi luyện người công chính. Những ai vượt qua sẽ được đưa về thế giới tốt đẹp hơn; còn những người khác thì được giữ lại trần gian để hoàn thành sứ mạng chưa trọn.

Và họ nên hiểu rằng: chính tinh thần của thời đại Kitô giáo – chứ không phải bất kỳ phong tục chiến tranh nào – đã khiến quân man rợ dừng tay. Dù ở nơi nào, công khai hay kín đáo, thậm chí tại những nhà thờ lớn nhất được chọn làm nơi trú ẩn, lòng nhân từ ấy vẫn xuất phát từ danh Chúa.

Vậy thì, thay vì oán trách, họ nên cúi mình cảm tạ Thiên Chúa, và thành tâm quay về nương náu nơi danh Ngài, hầu tránh khỏi hình phạt vĩnh cửu – những người mà trước đó, chỉ giả vờ mang danh Kitô để thoát khỏi cái chết thân xác.

Vì trong số những kẻ nay đang kiêu ngạo sỉ nhục tôi tớ Đức Kitô, có không ít người đã thoát chết nhờ giả danh là tín hữu. Nhưng giờ đây, trong sự ngạo nghễ vô ơn và sự điên cuồng bất kính, họ cả gan chống lại danh Đấng đã che chở họ, và vì thế, họ không chỉ tự hủy mình trong tội lỗi mà còn đối diện nguy cơ bị ném vào bóng tối đời đời – chỉ vì một khoảnh khắc ánh sáng chóng qua của đời này.


Chương 2 – Chưa từng có tiền lệ trong chiến tranh rằng kẻ thắng trận lại tha mạng kẻ bại vì kính trọng các vị thần

Hãy đọc lại lịch sử muôn vàn cuộc chiến, từ trước khi Rome được xây dựng cho đến khi nó trở thành đế quốc hùng mạnh. Hãy thử chỉ ra một trường hợp nào, khi một thành phố bị kẻ thù chiếm lấy, mà những ai chạy vào đền thờ của các vị thần lại được tha mạng chỉ vì trú ẩn tại đó.

[Một số học giả như dòng Biển Đức có nhắc đến vài trường hợp lẻ tẻ như Alexander Đại đế hay Xenophon từng làm vậy. Nhưng rất hiếm.]

Chẳng phải Aeneas đã thấy vua Priam bị giết ngay tại bàn thờ, máu vấy lên nơi ông từng dâng tế lễ hay sao? (Virgil, Aeneid 2:201–202)

Chẳng phải Diomede và Odysseus cũng đã giết người canh giữ, rồi kéo pho tượng thần ra khỏi đền, tay họ đầy máu, làm ô uế cả tóc và vương miện trinh trắng của nữ thần hay sao? (Aeneid 2:266)

Virgil còn kể rằng từ đó “vận mệnh Hy Lạp đổi chiều”, nhưng thực tế thì sao? Sau những hành động ấy, quân Hy Lạp đã hủy diệt thành Troy bằng lửa và gươm, chặt đầu vua Priam ngay cả khi ông đang chạy về phía bàn thờ.

Troy không diệt vong vì mất tượng thần Minerva. Vì nếu xét cho cùng, chính pho tượng cũng cần người bảo vệ. Khi lính gác bị giết, tượng thần bị lấy đi. Rõ ràng: không phải tượng thần bảo vệ người, mà người bảo vệ tượng thần.

Vậy làm sao Minerva – vị thần không tự bảo vệ được chính mình – lại có thể bảo vệ thành Troy và dân cư nơi đó?

Chương 3 – Người La Mã đã mất sự khôn ngoan thường thấy khi đặt niềm tin vào các vị thần bất lực trong việc bảo vệ thành Troy

Than ôi! Chính những vị thần mà người La Mã hân hoan trao gửi vận mệnh thành Rome lại là những vị thần bất lực không thể bảo vệ thành Troy ngày trước! Một sai lầm đáng thương, quá đỗi đáng thương!

Vậy mà khi chúng tôi chỉ ra điều này, họ lại nổi giận. Trong khi với chính những tác giả La Mã xưa kia – những người cũng viết điều tương tự – họ chẳng những không tức giận, mà còn bỏ tiền ra để học, thậm chí còn trả lương công quỹ cho các giáo sư dạy các tác phẩm ấy và ban danh dự cho họ!

Virgil, nhà thơ được xem là vĩ đại nhất, tiêu biểu nhất, thường được dạy cho trẻ em như một hình mẫu văn học lý tưởng, với mục đích – như Horace từng nói – rằng:

“Thùng rượu mới giữ được vị đầu lâu nhất.”
(Horace, Thư I, 2:29)

Thế nhưng trong chính tác phẩm của Virgil, thần Juno – kẻ thù không đội trời chung của người Troia – đã nổi giận và xúi giục thần gió Aeolus chống lại họ bằng những lời:

“Một giống nòi ta căm ghét,
Đang vượt biển mang Troy đến Ý,
Cùng thần hộ mệnh – đã bị khuất phục.”

(Aeneid, 1:11)

Vậy liệu những con người sáng suốt có nên đặt vận mệnh thành Rome vào tay những “thần linh đã bị chinh phục” ấy không?

Có người sẽ bào chữa: “Đó chỉ là lời lẽ của Juno – một người đàn bà tức giận nên nói năng không suy nghĩ.” Vậy thì hãy nghe chính Aeneas – người được mệnh danh là “kính Chúa, hiếu nghĩa” – nói gì:

“Kìa Panthus, thầy tế của Apollo, thoát chết chạy trốn,
Tay run rẩy ôm các vị thần thất trận,
Vội vã tìm nơi trú ẩn.”

Không phải quá rõ ràng sao? Các vị thần ấy không che chở cho Aeneas, mà chính ông mới là người đang che chở cho họ. Và lại còn lời tiên đoán dành cho ông:

“Các thần linh gia hộ nay phó thác cho tay ngươi
Vận mệnh đất nước quê hương.”

Vậy mà người ta vẫn đi thờ cúng những thần linh từng bị thất trận, từng phải nương nhờ vào con người để được sống sót – và gọi họ là “thần hộ mệnh”! Nếu Virgil – nhà thơ lớn nhất – đã viết rằng các thần ấy bị khuất phục, và rằng họ chỉ thoát thân nhờ con người bảo vệ, thì thật điên rồ khi nghĩ rằng Rome từng khôn ngoan khi gửi gắm vận mệnh của mình cho những vị thần đó!

Tôn thờ những thần linh bại trận, xem họ là chỗ dựa vững chắc – chẳng phải là một điềm xấu thay vì là điều tốt sao? Có lẽ nên nói rằng: “Nếu không có Rome giữ lấy họ lâu đến thế, có lẽ họ đã bị lãng quên từ lâu rồi.” Chứ đừng nghĩ rằng: “Rome chỉ sụp đổ vì đánh mất các vị thần bảo vệ.”

Ai có lý trí đều có thể thấy rõ: sai lầm nằm ở chỗ người ta chọn làm chỗ dựa chính những vị thần đã định sẵn để bị đánh bại.

Các thi sĩ khi viết những điều ấy không hề cố tình bịa đặt; họ chỉ đơn thuần buộc phải thừa nhận sự thật mà lương tri buộc họ phải nói ra. Vấn đề này tôi sẽ còn bàn kỹ ở một phần khác, thích hợp hơn.


Còn bây giờ, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều: Những kẻ vô ơn đang báng bổ Đức Kitô – kẻ đổ lỗi cho Ngài về các tai ương mà chính tội lỗi của họ gây nên – lại chính là những người đã được tha mạng vì danh Ngài, nhưng chẳng buồn thừa nhận điều đó.

Tại các thánh đường được thánh hiến cho Chúa Kitô – nơi không kẻ thù nào dám ra tay vì kính danh Ngài – họ đã dùng chính miệng mình để nhận danh Kitô mà được cứu mạng. Nhưng khi ra khỏi nơi trú ẩn ấy, họ lại dùng miệng đó để nguyền rủa Ngài, khạc ra những lời đầy thù hận.

Trong sự điên loạn đầy kiêu ngạo và phạm thượng, họ đã lạm dụng danh Chúa để được sống, rồi quay lại chống đối danh ấy – dù rằng chính danh ấy đã cứu họ khỏi chết.

Chương 4 – Nơi ẩn náu của nữ thần Juno tại thành Troy không cứu được ai khỏi tay quân Hy Lạp; còn các thánh đường Tông đồ đã che chở mọi người chạy trốn quân man rợ

Như đã nói, thành Troy – cái nôi của dân tộc La Mã – cũng không thể che chở chính cư dân của mình trước gươm giáo và lửa thiêu của quân Hy Lạp, ngay cả khi họ đang ẩn náu trong các đền thờ thiêng liêng của thần thánh. Mà oái oăm thay, người Hy Lạp và người Troia thờ cùng một hệ thống các vị thần!

Không chỉ không bảo vệ được, mà Virgil còn mô tả cảnh tượng như sau:

“Ngay trước miếu Juno – nơi linh thiêng bậc nhất,
Phoenix và Ulysses chất đầy chiến lợi phẩm:
Những báu vật tịch thu từ các đền cháy rụi,
Bát vàng, bàn thờ quý,
Áo gấm lụa là, lẫn lộn xô bồ,
Trong khi phụ nữ và trẻ em sợ hãi,
Đứng thành hàng, đợi bị bắt đi.”

(Virgil, Aeneid 2:261, diễn ý)

Nói cách khác: ngôi đền linh thiêng của nữ hoàng các thần không được dùng để cứu người, mà để dồn người thành tù binh. Không ai được tha tại đó – nơi thiêng liêng nhất cũng trở thành nơi giam cầm.

Hãy so sánh nơi ấy với các nhà thờ được xây dựng để tưởng nhớ các thánh Tông đồ của Đức Kitô. Trong đền Juno, chiến lợi phẩm được đem đến không phải để trả lại cho chủ cũ, mà để chia nhau giữa những kẻ chiến thắng. Còn tại các nhà thờ Kitô giáo, tất cả những gì thuộc về nhà thờ – dù bị lấy đi – đều được đưa trở lại, trong sự kính trọng sâu sắc, dù chúng được tìm thấy ở nơi nào.

Ở đền Juno, tự do bị đánh mất. Ở các nhà thờ Kitô, tự do được bảo vệ. Nơi kia người dân bị lùa vào để trở thành nô lệ; nơi này, chính quân thù – trong phút động lòng – lại dẫn người dân vào để họ được tự do.

Người Hy Lạp văn minh đã dùng đền Juno làm nơi phô trương lòng tham và kiêu ngạo; còn những dân man rợ lại chọn các nhà thờ Kitô giáo làm nơi thể hiện lòng khiêm nhường và lòng thương xót.

Có thể bạn sẽ hỏi: “Phải chăng Virgil – với tư cách một nhà thơ – chỉ sáng tác tưởng tượng, và quân Hy Lạp thật ra đã tha mạng cho những ai ẩn náu trong đền thờ?” Nhưng không, những điều Virgil viết ra chỉ phản ánh đúng thực tế phổ biến mỗi khi một thành phố bị cướp phá.


Chương 5 – Lời của Caesar về tập tục phổ biến của quân thù khi cướp phá một thành phố

Ngay cả Caesar – người không ai nghi ngờ về sự xác tín – cũng đã mô tả tập tục dã man của quân địch khi chiếm thành. Trong một bài phát biểu tại Thượng viện về bọn âm mưu phản quốc, theo ghi chép của sử gia danh tiếng Sallust, ông nói:

“Trinh nữ và thiếu niên bị làm nhục,
Trẻ em bị giật khỏi vòng tay cha mẹ,
Phụ nữ bị phó mặc cho dục vọng của kẻ chiến thắng,
Đền thờ và nhà cửa bị cướp bóc,
Giết chóc và thiêu đốt diễn ra khắp nơi;
Cảnh tượng tràn ngập vũ khí, xác chết, máu me, và tiếng than khóc.”

Nếu Caesar không nhắc đến đền thờ, có lẽ chúng ta còn có thể giả định rằng kẻ địch thường tránh phạm đến nơi linh thiêng. Nhưng ông đã nêu rõ: ngay cả đền thờ cũng không được tha.

Và điều đáng kinh ngạc hơn: những đền thờ bị đe dọa ấy không phải do quân thù ngoại bang, mà bởi chính công dân La Mã – cụ thể là Catiline và những kẻ đồng mưu. Họ vốn là những nghị sĩ, những người được xem là ưu tú nhất của La Mã!

Có thể sẽ có người bào chữa: “Những kẻ đó là phản quốc, là những đứa con tội lỗi của đất mẹ.” Nhưng chính điều đó càng cho thấy: ngay cả người La Mã cũng không giữ nổi lòng tôn kính với đền thờ của chính mình – thì sao có thể trách quân thù ngoại bang khi chúng làm điều tương tự?

Chương 6 – Ngay cả người La Mã khi chiếm thành cũng không tha cho những kẻ chạy vào đền thờ

Vậy thì, chúng ta cần gì phải nêu dẫn các dân tộc khác – những quốc gia đã từng giao chiến với nhau – để chỉ ra rằng không nơi nào người ta có thói quen tha mạng cho kẻ thù chỉ vì họ đang trú ẩn trong đền thờ của các vị thần? Hãy xét chính dân La Mã – dân tộc vốn tự hào rằng mình “biết tha cho kẻ bại, chinh phục kẻ kiêu”, rằng họ thích khoan dung hơn là trả thù.

Hãy thử xem, trong vô số những thành phố mà La Mã đã đánh chiếm và phá hủy để mở rộng quyền lực của mình, có trường hợp nào mà những ai chạy vào đền thờ lại được bảo đảm an toàn hay không? Có bao giờ người La Mã ban lệnh rằng đền thờ là nơi bất khả xâm phạm đối với quân lính đang cướp phá?

Hay phải chăng họ đã từng làm điều đó, nhưng sử gia lại cố tình lược bỏ không ghi chép? Có thể tin được chăng rằng những sử gia luôn nhiệt thành nêu lên những điều có lợi cho danh tiếng La Mã, lại bỏ qua một hành động nhân đạo tột bậc như vậy – nếu thật sự có?

Marcus Marcellus – một vị tướng lừng danh của La Mã, người đã chinh phục thành Syracuse (một trong những thành phố hoa lệ nhất thời ấy) – được kể lại là đã khóc thương cho số phận diệt vong sắp đến với thành ấy trước khi ra lệnh đánh chiếm. Ông còn nổi tiếng vì đã cố gắng bảo vệ tiết hạnh của phụ nữ địa phương. Trước khi ra lệnh tấn công, ông đã ban hành sắc lệnh cấm quân lính xâm phạm bất kỳ người tự do nào.

Thế nhưng, thành Syracuse vẫn bị cướp phá đúng theo thông lệ chiến tranh. Và chúng ta không hề thấy ghi chép nào nói rằng Marcellus – dù đầy lòng nhân từ – từng ra lệnh không được làm hại những ai chạy vào đền thờ để nương náu.

Nếu việc ấy có thật, chắc chắn các sử gia đã không bỏ qua – nhất là khi họ còn ghi lại cả giọt nước mắt của vị tướng, hay sắc lệnh ông ban về việc giữ gìn trinh tiết.

Cũng vậy, tướng Fabius – người chinh phục thành Tarentum – được ca ngợi vì không lấy đi các pho tượng thần trong thành. Khi thư ký hỏi ông muốn xử lý số tượng này thế nào – vì có rất nhiều, có pho còn vũ trang – Fabius chỉ mỉm cười mà nói đùa rằng: “Thôi, cứ để người Tarentine giữ lại các vị thần đang nổi giận của họ.”

Những sử gia đã ghi lại cả giọt nước mắt của người này lẫn nụ cười mỉa mai của người kia. Họ không bỏ sót điều gì có thể được dùng để tô điểm cho hình ảnh người La Mã.

Vậy thử hỏi, nếu thực sự từng có chuyện người La Mã tha mạng cho ai đó vì họ trú trong đền thờ của kẻ địch – chẳng lẽ một chi tiết cao quý như vậy lại không được ghi lại? Rõ ràng, không có tiền lệ nào về hành vi tha thứ đặc biệt ấy trong truyền thống chiến tranh La Mã.

Chương 7 – Những hành động tàn ác trong việc cướp phá thành Rome là theo thông lệ chiến tranh; còn lòng khoan dung lại là kết quả từ ảnh hưởng của danh Đức Kitô

Tất cả những đau thương mà thành Rome phải chịu trong thảm họa gần đây – từ cướp bóc, tàn sát, đốt phá, đến khổ sở – đều là hệ quả tất yếu của chiến tranh, đúng theo thông lệ bao đời.

Điều đáng lưu ý không phải là những hành vi dã man ấy, mà là một điều hoàn toàn mới mẻ: những kẻ man rợ tàn bạo lại tỏ ra khoan dung lạ thường. Họ đã chọn ra những nhà thờ lớn nhất, dành riêng làm nơi trú ẩn cho những người được tha mạng. Trong các thánh đường ấy, không ai bị giết, không ai bị lôi đi cưỡng bức; trái lại, nhiều người đã được chính kẻ địch đưa vào nhà thờ để được tự do, và không ai bị kéo ra khỏi đó để đem làm nô lệ.

Ai không nhìn thấy rằng điều này xuất phát từ danh Đức Kitô và tinh thần Kitô giáo thì người ấy mù quáng. Ai thấy mà không ngợi khen thì vô ơn. Ai ngăn người khác ca ngợi điều ấy thì quả là điên rồ.

Không một người khôn ngoan nào lại gán lòng khoan dung ấy cho bản chất của quân man rợ. Tâm trí đầy máu và thù hận của họ đã bị khuất phục, bị kiềm hãm, và được dịu hóa cách lạ lùng bởi Đấng đã từ lâu phán qua miệng tiên tri rằng:

“Ta sẽ dùng roi sửa phạt sự phản nghịch của chúng,
Dùng hình phạt trừng trị tội lỗi của chúng;
Nhưng lòng nhân hậu của Ta, Ta sẽ không cất khỏi chúng.”

(Thánh Vịnh 89:32–33)

Chương 8 – Về những điều tốt lành và tai ương trong đời này thường xảy đến một cách không phân biệt cho cả người công chính lẫn kẻ gian ác

Sẽ có người thắc mắc: “Vì sao lòng thương xót của Thiên Chúa lại được ban cả cho kẻ vô đạo và vô ơn?” Thưa rằng: vì đó chính là lòng thương xót của Đấng “mỗi ngày cho mặt trời mọc lên trên kẻ lành lẫn kẻ dữ, và cho mưa rơi xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” (Mt 5:45)

Bởi lẽ, có những người – khi nghĩ đến ơn ấy – đã ăn năn hối cải. Nhưng cũng có kẻ, như lời thánh Tông đồ nói, “khinh thường sự giàu có của lòng nhân hậu, nhẫn nại và khoan dung của Thiên Chúa, và với lòng chai đá, không hối cải, đang tự tích lũy cho mình cơn thịnh nộ cho ngày phán xét công minh của Thiên Chúa, Đấng sẽ trả lại cho mỗi người tùy theo việc họ làm.” (Rm 2:4–6)

Dù vậy, sự kiên nhẫn của Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi kẻ dữ ăn năn, như roi vọt của Ngài uốn nắn người lành trong sự nhẫn nại. Cũng vậy, lòng thương xót của Thiên Chúa ấp ủ người công chính để dưỡng nuôi họ, còn sự nghiêm khắc của Ngài bắt giữ kẻ ác để trừng phạt.

Sự Quan Phòng thần linh đã ấn định rằng: ở đời sau, người công chính sẽ được hưởng phúc lành mà kẻ dữ không được dự phần; còn kẻ ác sẽ chịu đau khổ mà người công chính không phải sợ. Nhưng những điều tốt đẹp và tai ương ở đời này thì được phân phát chung cho cả hai, hầu cho chúng ta đừng ham mê những gì mà kẻ ác cũng có thể hưởng, và cũng đừng sợ hãi quá mức những điều mà cả người công chính cũng thường chịu.

Bởi lẽ, cùng một biến cố – dù là tốt lành hay đau khổ – có thể mang ý nghĩa rất khác biệt nơi người lành và kẻ dữ. Người công chính không kiêu ngạo khi gặp thuận lợi, cũng không suy sụp khi gặp nghịch cảnh. Trái lại, kẻ gian ác, vì bị hư hỏng bởi hạnh phúc chóng qua, nên cảm thấy khốn khổ tột cùng khi bất hạnh ập đến.

Tuy nhiên, ngay trong sự phân phát tạm thời ở đời này, Thiên Chúa vẫn cho thấy rõ sự can thiệp của Ngài. Bởi nếu mọi tội lỗi đều bị trừng phạt ngay lập tức, người ta sẽ tưởng rằng không còn gì chờ đợi ở ngày phán xét sau cùng. Ngược lại, nếu không có tội nào bị trừng phạt rõ ràng, người ta sẽ cho rằng Thiên Chúa không can dự gì cả.

Cũng vậy với những điều tốt lành ở đời này: nếu Thiên Chúa không ban cách rõ ràng cho một số người cầu xin, người ta sẽ nghĩ rằng những phúc lành ấy không nằm trong tay Ngài. Nhưng nếu Ngài ban cho tất cả mọi người cầu xin, người ta sẽ tưởng rằng đó là phần thưởng duy nhất của việc phụng sự Thiên Chúa, và như vậy lòng đạo sẽ bị biến thành lòng tham lam vụ lợi.

Vì thế, dù người công chính và kẻ gian ác cùng chịu những tai ương giống nhau, ta không nên tưởng rằng bản thân họ giống nhau – chỉ vì sự việc họ gặp phải là giống nhau. Bởi dưới vẻ ngoài giống nhau của thử thách, bản chất của con người vẫn rất khác biệt. Cùng chịu đau khổ, nhưng nhân đức và tội lỗi không thể đánh đồng.

Như cùng một ngọn lửa làm vàng rực sáng, nhưng khiến rơm sinh khói độc; cùng một cái búa giã nát rơm rạ nhưng làm sạch lúa; cùng một áp lực trong cối ép khiến cặn rượu chìm xuống, nhưng dầu vẫn trong sáng tách biệt – thì cũng vậy, cùng một nghịch cảnh có thể tôi luyện người công chính nhưng diệt vong kẻ ác.

Trong cùng một tai họa, kẻ gian ác nguyền rủa Thiên Chúa và lăng mạ Ngài; còn người công chính cầu nguyện và ngợi khen. Như vậy, điều tạo nên sự khác biệt không nằm ở nỗi khổ, mà ở tấm lòng của người đang chịu khổ.

Vì, cùng một chuyển động có thể khiến bùn bốc mùi hôi thối, nhưng cũng khiến dầu thơm tỏa hương ngát ngào.

Chương 9 – Về lý do Thiên Chúa sửa dạy cả người lành lẫn kẻ dữ trong cùng một biến cố

Vậy thì, các Kitô hữu đã phải chịu đựng điều gì trong tai họa vừa qua mà lại không mang đến ích lợi cho những ai biết suy xét và sống trung tín? Trước hết, họ cần khiêm tốn nhìn nhận rằng chính những tội lỗi của nhân loại đã khiến Thiên Chúa nổi giận mà trút xuống trần gian những thảm họa khủng khiếp như vậy. Dù người lành có tránh xa sự gian ác trắng trợn, sự vô luân và báng bổ của kẻ tội lỗi, thì họ cũng không dám tự cho mình là vô tội hoàn toàn để khỏi phải chịu khổ đau trần thế.

Bởi vì con người – dù sống cách đáng khen – thì vẫn còn yếu đuối trước dục vọng xác thịt. Dù không phạm những tội lớn và ghê tởm, họ vẫn có thể vướng vào những lỗi nhỏ – hiếm hoi hoặc thường xuyên – chỉ vì thấy nó “không nghiêm trọng lắm”.

Nhưng tạm gác điều đó sang một bên, thử hỏi: có mấy ai trong chúng ta đánh giá đúng mức về những kẻ đang sống trong kiêu căng, xa hoa, tham lam, bất chính và vô đạo – những kẻ mà chính vì họ mà Thiên Chúa đang sửa phạt thế gian, đúng như Ngài đã cảnh báo từ trước?

Có mấy ai trong chúng ta sống giữa họ đúng như cách mà một người công chính nên sống? Bao lần, chúng ta cố tình nhắm mắt làm ngơ khi có thể lên tiếng giảng dạy, cảnh báo, thậm chí quở trách họ – bởi vì chúng ta ngại vất vả, sợ làm họ phật lòng, sợ mất tình thân, sợ bị cản trở trên đường tiến thân, hay sợ thiệt hại về vật chất mà lòng tham đang níu giữ, hoặc nỗi yếu đuối không dám buông bỏ.

Vì thế, dù người lành không chia sẻ số phận đời đời của kẻ dữ, vì họ không chấp nhận lối sống tội lỗi ấy, thì họ vẫn có thể bị Thiên Chúa sửa phạt chung trong đời này – không phải vì những tội trọng, mà vì đã quá mềm lòng trước tội của kẻ khác. Và khi Thiên Chúa đánh phạt chung như vậy, người công chính cũng nếm vị đắng của thế gian mà họ đã yêu chuộng quá mức – chính vì quá yêu mà họ không dám làm “cay đắng” những kẻ tội lỗi đáng ra phải bị lên án.

Tất nhiên, có người không lên tiếng vì muốn chờ thời điểm thích hợp hơn, hay vì sợ rằng lời quở trách có thể làm người kia chai lì hơn nữa, hoặc khiến những người yếu đức tin nản lòng và xa rời Chúa – nếu vậy thì đó là sự thận trọng vì tình bác ái, không phải vì tư lợi.

Tuy nhiên, điều đáng trách là ở chỗ: có những người vốn sống tốt, không đồng lõa với kẻ ác, nhưng lại bao dung với tội lỗi nơi người khác, vì sợ làm mất lòng, sợ ảnh hưởng đến những lợi ích trần thế mà mình có thể sử dụng một cách chính đáng – nhưng lại đang nắm giữ quá chặt, như thể quên rằng mình chỉ là lữ khách giữa đời này.

Không chỉ những anh chị em yếu đuối trong Hội Thánh – những người có gia đình, con cái, nhà cửa – mà ngay cả những người sống đời độc thân, ăn uống đạm bạc, không vướng bận gia đình, cũng thường tránh lên tiếng phê phán kẻ ác vì sợ bị trả thù hoặc mất danh tiếng. Họ không sợ đến mức bị lôi kéo vào cùng tội lỗi, nhưng vì sợ hại đến an toàn và uy tín của mình, nên họ tránh can thiệp – dù có thể chính sự can thiệp ấy sẽ ngăn cản được tội lỗi.

Và dù họ viện lý do chính đáng là cần giữ uy tín để có ảnh hưởng tích cực, thì lý do sâu xa vẫn là vì họ quá yêu thích được người đời khen ngợi, quá sợ bị chỉ trích, quá sợ đau đớn hoặc cái chết. Tức là: họ im lặng không vì tình yêu, mà vì lòng vị kỷ.

Vậy nên, theo tôi, đây chính là một trong những lý do chính khiến người lành bị sửa phạt chung với kẻ dữ – khi Thiên Chúa dùng những hình phạt tạm thời để thanh luyện xã hội trụy lạc. Người lành không bị phạt vì sống tội lỗi như kẻ dữ, nhưng vì họ – cũng như kẻ dữ – đã quá yêu mến đời này, trong khi đáng ra phải khinh thường nó, để có thể trở thành gương sáng cho kẻ ác noi theo và hoán cải.

Còn nếu những người gian ác vẫn từ chối đồng hành với người lành trên hành trình tìm kiếm sự sống đời đời, thì họ phải được yêu thương như kẻ thù – nghĩa là yêu trong kiên nhẫn và hy vọng, vì khi họ còn sống, vẫn chưa biết được liệu họ có hoán cải hay không.

Những người đạo đức vì ích kỷ mà im lặng còn đáng lo hơn cả những kẻ mà Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ rằng: “Nó chết trong tội ác của mình, nhưng máu nó, Ta sẽ đòi nơi tay người canh gác.” (Edk 33:6)

Trong Hội Thánh, những người được đặt làm “người canh gác” – tức các mục tử – có trách nhiệm mạnh mẽ lên án tội lỗi. Nhưng không chỉ các ngôn sứ mới mang trách nhiệm ấy. Ngay cả người thường – nếu vì các mối quan hệ đời này mà chứng kiến nhiều điều đáng lên án trong người khác mà vẫn im lặng – cũng không thể vô can, nếu sự im lặng ấy phát sinh từ tham vọng quá mức đối với những điều trần thế.

Sau cùng, còn một lý do nữa khiến người lành chịu khổ cùng người dữ – chính là điều đã được minh chứng trong câu chuyện ông Gióp: để tinh luyện tâm hồn, để bày tỏ đức tin vững vàng và lòng mến Chúa không vụ lợi.

Chương 11 – Việc sống lâu hay chết sớm có quan trọng không?

Có người phản bác: “Nhiều Kitô hữu đã bị tàn sát, và chịu chết bằng những cách vô cùng dã man.” Nhưng nếu cái chết là điều khó chấp nhận, thì đó vẫn là số phận chung của toàn thể nhân loại. Bởi tôi chắc chắn một điều: chưa từng có ai sống mà không một ngày phải chết.

Cái chết làm cho kẻ sống lâu cũng giống như người chết sớm. Bởi nếu cả hai đều đã không còn tồn tại, thì chẳng ai hơn, ai kém; chẳng ai chết “cao quý” hơn người kia.

Và điều gì quan trọng hơn: hình thức cái chết, hay điểm đến sau cái chết? Một người đã chết thì không phải chịu chết lần nữa. Trong đời sống thường ngày, mỗi người đều đối mặt với vô số nguy cơ chết chóc, và vì không biết mình sẽ chết cách nào, liệu có tốt hơn không nếu chỉ chịu một cái chết – thay vì phải sống trong nỗi sợ hàng trăm cái chết?

Tôi biết rõ rằng sự yếu đuối của thể xác thường khiến người ta chọn sống lâu trong lo sợ, hơn là chết một lần để dứt khoát mọi sợ hãi. Nhưng sự run rẩy hèn yếu của xác thịt khác hẳn với sự sáng suốt và bình an của linh hồn.

Cái chết không phải là điều xấu – nếu nó là kết thúc của một đời sống tốt. Cái chết chỉ trở thành điều dữ nếu nó dẫn đến án phạt đời đời.

Vì vậy, người Kitô hữu không nên quá bận tâm về cách mình sẽ chết, mà phải tự hỏi: sau cái chết, mình sẽ đi đâu?

Người Kitô hữu đã biết rõ: cái chết của người nghèo đạo đức – như người ăn mày mà chó liếm vết thương – thì còn cao trọng hơn cái chết của người giàu sang gian ác, kẻ từng nằm trên giường lụa là. Vậy thì, các cái chết kinh hoàng có thể làm gì được người đã sống ngay lành?


Chương 12 – Về việc chôn cất người chết: từ chối chôn cất không gây tổn hại gì cho Kitô hữu

Có người lại than phiền: “Trong cuộc tàn sát ấy, nhiều thi thể không được chôn cất.” Nhưng người Kitô hữu trung tín không hề bị khuất phục trước một biến cố có vẻ đáng sợ như vậy.

Bởi vì họ luôn ghi nhớ lời hứa: ‘Dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng sẽ không hư mất.’ Cho nên dù thân xác họ có bị thú dữ ăn thịt, thì điều đó cũng không ngăn cản được sự phục sinh vinh hiển sau này.

Nếu kẻ thù có thể gây tổn hại lâu dài đến linh hồn bằng cách xúc phạm thân xác đã chết, thì Đức Kitô đã không nói:
“Đừng sợ kẻ giết được thân xác mà không thể giết được linh hồn.”
(Mt 10:28)

Liệu có ai lại cho rằng kẻ thù giết hại thân xác thì không đáng sợ trước khi chết, mà lại đáng sợ sau khi chết chỉ vì họ không cho chôn cất? Nếu vậy thì hóa ra lời Đức Giêsu nói là sai:
“Đừng sợ kẻ giết thân xác, vì sau đó họ không thể làm gì hơn được nữa.” (Lc 12:4)

Nhưng sự thật thì: người ta nói rằng họ “làm được gì đó” khi giết thân xác là vì cái chết vẫn được cảm nhận lúc thân xác còn sống. Nhưng sau khi chết, họ không còn làm được gì nữa, vì thân xác khi đã chết không còn cảm giác.

Đúng là nhiều thi thể Kitô hữu đã bị bỏ mặc không chôn cất. Nhưng chẳng ai có thể tách họ khỏi thiên đàng, cũng không tách họ khỏi đất – vì cả trái đất này đều nằm dưới sự hiện diện của Đấng đã tạo nên họ, và biết rõ phải gọi lại họ từ đâu để ban phục sinh.

Thánh Vịnh có chép:

“Thân xác các tôi tớ Ngài bị phó làm mồi cho chim trời,
Thịt các thánh của Ngài cho thú rừng.
Máu họ đổ như nước xung quanh thành Giêrusalem,
Và không ai chôn cất họ.”
(Tv 79:2–3)

Nhưng đoạn ấy không nhằm nói lên nỗi bất hạnh của người chết, mà để lên án sự tàn ác của kẻ hành hình.

Trước mắt người đời, điều đó có vẻ thật đau xót, nhưng “cái chết của các thánh là quý báu trước mặt Chúa.” (Tv 116:15)

Vì vậy, mọi lễ nghi liên quan đến việc chôn cất, mọi hình thức tang lễ, quan tài sang trọng, mộ phần tráng lệ – tất cả những thứ ấy là để an ủi người sống, chứ không phải để giúp ích gì cho người chết.

Nếu một đám tang lộng lẫy có thể ích lợi gì cho kẻ gian ác, thì một đám tang đạm bạc – hoặc thậm chí không có – cũng không thể gây hại cho người thánh thiện.

Tên phú hộ mặc lụa là trong dụ ngôn đã được mai táng trọng thể bởi cả đoàn tôi tớ; nhưng trong mắt Thiên Chúa, đám tang đẹp đẽ hơn là của người ăn mày Lazarô, kẻ được thiên thần đưa lên lòng Abraham. Không phải về mộ đá, mà là về nơi linh hồn được an nghỉ.


Những người tôi đang tranh luận để bảo vệ Thành phố Thiên Chúa thì cười nhạo tất cả những điều này. Nhưng ngay cả những triết gia ngoại giáo của họ cũng từng coi thường việc chôn cất. Biết bao đạo quân đã từng chiến đấu và bỏ mình vì tổ quốc trần thế mà chẳng bận tâm xem thi thể của mình sẽ nằm phơi giữa chiến trường hay làm mồi cho thú dữ.

Thậm chí, thi ca cũng từng ca ngợi thái độ cao thượng ấy:

“Ai không có mộ phần thì bầu trời là mái vòm chôn cất.”

Vậy thì, còn ít lý do hơn nữa để họ chế nhạo thân xác Kitô hữu không được chôn cất – bởi chúng tôi được hứa rằng chính thân xác ấy sẽ được phục hồi.chúng tôi tin rằng thân xác ấy sẽ được tái tạo lại nguyên vẹn, dù đã nằm ẩn trong lòng đất, hay tan rã trong những nguyên tố sâu kín nhất của vũ trụ.

Chương 13 – Về việc mai táng thi thể của các thánh

Tuy nhiên, không vì thế mà chúng ta coi thường hay bỏ mặc thi thể người chết, đặc biệt là thi thể của những người công chính và trung tín, vốn đã từng là khí cụ của Chúa Thánh Thần trong mọi việc lành.

Nếu chiếc áo hay chiếc nhẫn của người cha quá cố cũng được con cái nâng niu, tùy theo mức độ yêu thương, thì lẽ nào chúng ta lại không quý trọng thi thể của người thân yêu, vốn gần gũi hơn bất kỳ y phục nào mà họ từng mang?

Vì thân xác không chỉ là một lớp vỏ ngoài hay một phương tiện phụ trợ, mà là một phần trong chính bản tính con người.

Vì thế, trong Cựu Ước, người ta luôn chu toàn nghĩa vụ mai táng cách kính cẩn cho người công chính, dành sẵn mộ phần cho họ, và cử hành tang lễ trọng thể. Chính các tổ phụ khi còn sống cũng dặn dò con cháu về nơi chôn cất, và đôi khi còn chỉ rõ nơi muốn được di dời thi thể về.

Sách Tôbia thuật lại rằng, theo lời thiên sứ, ông Tôbia được khen ngợi là người làm đẹp lòng Thiên Chúa nhờ việc chôn cất người chết. (Tb 12:12)

Chính Đức Kitô, dù biết mình sẽ sống lại sau ba ngày, vẫn khen ngợi người phụ nữ đạo đức đã xức dầu thơm lên mình Ngài để chuẩn bị cho việc mai táng. (Mt 26:10–13)

Phúc Âm cũng ca ngợi những người đã hạ xác Chúa xuống khỏi thập giá, quấn trong khăn liệm quý giá, và lo an táng Ngài cách trân trọng. (Ga 19:38)

Những ví dụ này không có ý nói rằng xác chết còn cảm giác, nhưng chúng minh chứng rằng Thiên Chúa quan phòng đến cả thân xác đã qua đời, và Ngài hài lòng với những nghĩa cử đạo đức ấy – vì chúng bày tỏ niềm tin vào sự sống lại.

Từ đó, chúng ta cũng học được một bài học quý giá: nếu Thiên Chúa không quên những gì ta làm cho người chết vốn không còn cảm giác, thì chắc chắn Ngài càng trọng thưởng lòng bác ái ta dành cho người đang sống.

Còn những điều mà các tổ phụ nói về việc mai táng và chuyển di thi thể của họ, thì có thể mang ý nghĩa tiên tri – nhưng ở đây không cần bàn thêm, vì chừng đó đã đủ cho mục đích hiện tại.

Nếu ngay cả sự thiếu thốn về thực phẩm hay quần áo – vốn cần thiết cho người sống – mà không thể bẻ gãy đức kiên nhẫn và lòng đạo đức của người tốt, thì việc thi thể không được chôn cất cũng không thể khiến các thánh nhân, đang an nghỉ trong lòng Chúa, trở nên khốn khổ.

Vì vậy, việc thân xác của người Kitô hữu trong cuộc cướp phá Rome hay các thành khác không được chôn cất, thì đó không phải là lỗi của người sống – vì họ bất lực, và cũng không phải là sự mất mát đối với người chết – vì họ không còn cảm giác thiếu thốn.


Chương 14 – Về việc người công chính bị bắt làm tù binh, và rằng Thiên Chúa không hề bỏ rơi họ

Lại có người nói: “Nhiều Kitô hữu đã bị bắt làm tù binh.” Nhưng thử hỏi, đó có thật là một số phận khốn khổ, nếu như không ai có thể đưa họ đến một nơi mà họ không thể tìm được Thiên Chúa?

Ngay cả thánh Kinh cũng đầy những nguồn an ủi về điều này.

Ba thiếu niên trong lò lửa, tiên tri Đaniel – tất cả đều là những người bị lưu đày – và Thiên Chúa không bao giờ rời xa họ. Cũng như vậy, Ngài đã không bỏ rơi dân Ngài khi họ rơi vào tay một dân tộc – dù man rợ, nhưng vẫn là con người.

Chính Thiên Chúa đã không bỏ rơi tiên tri Giôna, dù ông đang ở trong bụng một con cá lớn. (Gn 1)

Những điều ấy có thể khiến những người mà tôi đang tranh luận cho là chuyện cười hơn là sự thật – dù họ lại tin một cách nhiệt thành những gì họ đọc trong chính sách vở của mình: rằng Arion ở Methymna – một thi sĩ nổi tiếng – khi bị ném xuống biển, đã được một con cá heo cõng trên lưng đưa vào bờ.

Họ tin điều đó, nhưng lại chế giễu câu chuyện tiên tri Giôna. Nhưng tôi hỏi: liệu một phép lạ nhỏ bé như chuyện Arion có đáng tin hơn một phép lạ lớn lao hơn – chỉ vì nó kém vĩ đại hơn? Không! Chuyện Giôna thật khó tin – chính vì nó quá kỳ diệu, và kỳ diệu vì nó biểu lộ quyền năng lớn hơn.

Chương 15 – Về Regulus, một ví dụ về sự chịu đựng cảnh tù đày vì tôn giáo, dù điều đó chẳng mang lại ích lợi nào cho ông, dù ông là người tôn thờ các thần

Ngay trong chính lịch sử La Mã, họ cũng có một ví dụ rất cao quý về một người chấp nhận cảnh tù đày vì lương tâm tôn giáo. Đó là Marcus Attilius Regulus, một vị tướng La Mã lẫy lừng, bị bắt làm tù binh bởi người Carthage.

Tuy nhiên, vì người Carthage muốn đổi tù binh với La Mã hơn là giữ ông, nên họ cử Regulus làm đặc sứ, cùng với phái đoàn, về La Mã để thương lượng việc trao đổi này. Nhưng trước khi đi, họ buộc ông thề rằng nếu không thành công, ông phải trở về Carthage.

Regulus trở về La Mã và thuyết phục Thượng viện từ chối đề nghị trao đổi, vì ông cho rằng việc này không có lợi cho nền cộng hòa La Mã. Sau đó, dù người La Mã không bắt ông phải quay lại, ông vẫn tự nguyện giữ lời thề và trở lại với quân thù.

Kết cục, người Carthage tra tấn và giết ông bằng những hình thức cực kỳ dã man: họ nhốt ông trong một chiếc hòm hẹp, bên trong có đóng những đinh sắc nhọn xung quanh, khiến ông không thể dựa vào đâu mà không đau đớn. Cuối cùng, họ giết ông bằng cách không cho ngủ, tra tấn đến kiệt sức.

Người La Mã hoàn toàn có lý khi ca ngợi lòng kiên trung của Regulus – người đã giữ vững danh dự trước một số phận khủng khiếp như thế.

Nhưng giờ đây, chính những vị thần mà Regulus thề trước – và mà người La Mã từng thờ phượng – lại bị cho là đang trừng phạt nhân loại vì không còn được tôn thờ!

Nếu những vị thần ấy – vốn được thờ để ban phúc lành trong đời này – lại để cho người giữ lời thề với họ phải chết thê thảm như vậy, thì thử hỏi: nếu ai đó thề gian, họ còn trừng phạt thế nào nữa?

Vậy tôi có thể rút ra hai kết luận:

  1. Regulus kính sợ các thần đến mức chấp nhận trở về tay quân thù, rời bỏ quê hương, chấp nhận cái chết, chỉ để giữ lời thề. Nhưng nếu ông làm thế vì nghĩ sẽ nhận được phần thưởng đời này, thì ông đã lầm – vì ông đã phải chịu một cái chết khủng khiếp.
  2. Bản thân câu chuyện Regulus chứng minh rằng các thần không đảm bảo hạnh phúc trần thế cho những người thờ phượng họ. Vì chính ông – dù thờ các thần một cách trọn vẹn – vẫn bị đánh bại trong chiến trận, bị bắt, rồi bị tra tấn và giết hại bằng một hình thức mới mẻ và kinh hoàng.

Nếu ai đó cho rằng việc thờ thần sẽ được thưởng ở đời sau, thì tôi hỏi: vì sao họ lại đổ lỗi cho Kitô giáo khi tai họa ập đến, trong khi chính người thờ thần tận tụy như Regulus cũng không tránh được bi kịch như thế?

Hay họ sẽ viện cớ rằng: “Một người có thể gặp tai họa dù thờ thần, nhưng cả một thành phố thì không”? Vậy thì họ đang nói rằng: các thần mạnh hơn khi bảo vệ đám đông, nhưng lại yếu thế khi chỉ bảo vệ từng cá nhân – như thể thành phố không phải là tập hợp của từng con người!

Nhưng nếu họ lại nói rằng: “Ngay cả trong tù, giữa đau đớn, Regulus vẫn có thể hạnh phúc nhờ tâm hồn đạo đức,” thì tôi đồng ý – và mời họ hãy công nhận rằng chính nhờ “đạo đức đích thực” mà một thành phố mới có thể được chúc phúc. Bởi lẽ, hạnh phúc của cá nhân và của cộng đồng cùng xuất phát từ một nguồn: linh hồn ngay chính.

Vậy tôi không cần tranh luận về bản chất nhân đức của Regulus là như thế nào. Chỉ cần điều này: họ đã buộc phải thừa nhận – qua tấm gương của ông – rằng con người không nên thờ thần để tìm kiếm tiện nghi vật chất hay lợi ích trần gian. Vì Regulus đã chấp nhận mất hết những thứ đó để không xúc phạm các thần mà ông thề trước.

Nhưng nghịch lý thay: họ tự hào vì có một công dân như Regulus, nhưng lại không dám muốn có một thành phố sống như ông. Nếu họ không sợ như vậy, thì họ phải công nhận: một thành phố – dù siêng năng thờ thần như Regulus – vẫn có thể chịu cùng một tai họa. Và như thế, họ không còn lý do gì để đổ lỗi cho Kitô giáo.

Nhưng vì hiện tại, tôi đang nói đến những Kitô hữu bị bắt làm tù binh, nên tôi muốn nhắn nhủ với những ai lợi dụng tai họa này để công kích đức tin lành mạnh của chúng tôi – một cách vừa ngu muội vừa hỗn láo – rằng:

Nếu ngay cả các thần của họ không ngăn được việc một người tôn thờ họ như Regulus phải lìa bỏ quê hương, không còn hy vọng trở về, và bị tra tấn đến chết – thì tại sao lại đổ lỗi cho danh Kitô khi có Kitô hữu bị bắt làm tù?

Bởi vì các Kitô hữu chân chính, ngay cả khi đang sống trên quê hương, vẫn coi mình là khách lữ hành – vì quê hương thật của họ ở trên trời. Thế nên, họ chẳng bao giờ đánh mất điều gì khi mất trần thế.

Chương 16 – Về việc các trinh nữ được thánh hiến bị xâm phạm trong cảnh tù đày, và việc họ không hề tự nguyện; liệu điều đó có làm ô uế linh hồn họ hay không?

Người ta tưởng rằng mình đã nắm được lý lẽ đanh thép để chống lại Kitô giáo, khi họ gán thêm một nỗi kinh hoàng cho cảnh tù đày: rằng không chỉ phụ nữ có chồng hay thiếu nữ chưa kết hôn, mà cả những trinh nữ đã được thánh hiến cho Thiên Chúa cũng bị xâm phạm.

Thế nhưng, về điểm này, không phải đức tin Kitô giáo, không phải lòng đạo đức, thậm chí cũng không phải đức trong sạch bị đặt vào thế khó. Điều duy nhất khó xử ở đây là làm sao trình bày sự việc một cách vừa hợp lý vừa giữ gìn phẩm hạnh. Và trong cuộc thảo luận này, mục tiêu của tôi không phải là phản bác kẻ công kích, mà là an ủi những người đang đau khổ.

Trước hết, hãy khẳng định một chân lý không thể bác bỏ: đức hạnh – điều làm cho đời sống trở nên tốt đẹp – cư ngụ trong linh hồn, và từ đó điều khiển các chi thể của thân xác. Chính sự thánh thiện của ý chí khiến thân xác trở nên thánh.

Và nếu ý chí vẫn vững vàng, không lay chuyển, thì bất cứ điều gì xảy ra với thân xác – dù do người khác gây ra hay áp đặt lên – cũng không thể được coi là lỗi của người bị hại, miễn là họ không thể thoát khỏi điều đó mà không phạm tội.

Tuy nhiên, trong trường hợp thân xác không chỉ bị đau đớn mà còn bị kẻ khác thỏa mãn dục vọng trên đó, thì ngay cả linh hồn trong sạch cũng bị bao phủ bởi nỗi xấu hổ – không phải vì đồng lõa, mà vì e rằng người đời sẽ tưởng lầm có sự đồng thuận của ý chí trong hành động đáng ghê tởm ấy.


Chương 17 – Về việc tự sát vì sợ hình phạt hoặc vì nhục nhã

Vì thế, ngay cả khi một số trinh nữ đã tự sát để tránh khỏi điều ô nhục ấy, thì ai có chút lòng nhân đạo nào lại không cảm thấy thương xót và tha thứ cho họ?

Còn đối với những người không chọn cái chết, vì không muốn trốn tránh tội lỗi của người khác bằng cách tự gây nên tội lỗi cho chính mình, thì ai chê trách họ là tội lỗi nặng nề, người đó thật là kẻ dại dột.

Bởi vì, **nếu không được phép lấy quyền vào tay mình để giết ngay cả kẻ có tội – nếu không có bản án công khai – thì rõ ràng, ai giết chính mình là một kẻ sát nhân, và càng tội lỗi hơn vì mình không phạm tội đáng chết mà vẫn tự kết án.

Chúng ta kết án hành động của Giuđa là đáng kinh tởm, và chính sự thật cũng tuyên bố rằng khi treo cổ tự tử, ông ta đã làm cho tội phản bội của mình trở nên nặng nề hơn chứ không được xóa sạch. Vì khi tuyệt vọng về lòng thương xót của Thiên Chúa, nỗi buồn của ông không dẫn đến hoán cải, mà dẫn đến cái chết.

Vậy thì, một người không phạm tội, lại càng không nên giết mình – vì như thế là tự giết người vô tội, để chạy trốn tội ác của kẻ khác bằng chính một tội ác của bản thân.

Giuđa giết một kẻ xấu – chính là ông ta; nhưng ông ta vẫn phải chịu trách nhiệm không chỉ về cái chết của Chúa Kitô, mà còn về cái chết của chính mình. Vì dù tự tử để “đền tội”, thì cái chết ấy vẫn là một tội khác nữa.

Vậy tại sao một người không làm gì sai lại ra tay giết chính mình? Tại sao lại chọn cách tự kết án bản thân, để né tránh tội lỗi của người khác, và thay vào đó lại gây ra tội lỗi do chính mình?

5/5 - (1 vote)

Chúng tôi không có quảng cáo gây phiền nhiễu. Không bán dữ liệu. Không giật tít.
Thay vào đó, chúng tôi có:

  • Những bài viết chuyên sâu, dễ đọc
  • Tài liệu chọn lọc, minh bạch nguồn gốc
  • Niềm đam mê bất tận với sự thật lịch sử
DONATE

Toàn bộ tiền donate sẽ được dùng để:

  • Nghiên cứu – Mua tài liệu, thuê dịch giả, kỹ thuật viên.
  • Duy trì máy chủ và bảo mật website
  • Mở rộng nội dung – Thêm nhiều chủ đề, bản đồ, minh họa

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM