Dân làng, hiểu đơn giản nhất, là những người cùng sinh sống trong một không gian chung: cùng chia sẻ phong tục tập quán, cùng bảo vệ lẫn nhau, và cùng duy trì một nếp sống cộng đồng. Trong lịch sử xã hội Việt Nam, những quy ước và cách phân chia địa vị, giai cấp trong làng đã hình thành một bộ khung rất chi tiết, vừa để giữ gìn trật tự, vừa để củng cố sức mạnh và tinh thần đoàn kết của tập thể. Bài viết dưới đây sẽ trình bày một số nét chính về cách phân loại dân làng: từ dân nội tịch, dân ngoại tịch, đến những đẳng cấp khác nhau (chức sắc, hương chức, quan viên, lão hạng, dân đinh, ti ấu…), cũng như nhìn nhận sự phân chia giai cấp theo thói quen văn hoá ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
Dân làng: nội tịch và ngoại tịch
Để một ngôi làng thực sự tồn tại, điều quan trọng nhất là phải có người. Nếu không có người, dẫu bao nhiêu lũy tre hay cổng đình, vẫn không thành làng. Người dân sống, trao truyền đời này sang đời khác, cùng quần tụ thành cộng đồng, gọi là dân làng.
Trong cái “cộng đồng” ấy, xã hội Việt Nam xưa thường phân biệt hai loại lớn: dân nội tịch và dân ngoại tịch.
Dân nội tịch: Đẳng cấp và quyền lợi
Dân nội tịch là những người bản quán, sinh ra và lớn lên ở làng, thường đã gắn bó tối thiểu ba đời. Họ có tài sản, hoặc từng có tài sản (dù hiện thời có thể sa sút). Hoặc cũng có thể là những người được làng chính thức thừa nhận (đã “nhập làng” đủ lâu, tuân thủ mọi quy định về việc đóng góp phu phen, làng phí).
Chỉ có dân nội tịch mới có quyền tham gia việc làng, được hưởng quyền lợi dân đinh, bầu các chức danh trong làng và được chia công điền, công thổ.
Theo lệ cổ, một người dù giàu có, hoặc đã xin nhập làng, nhưng chưa đủ ba đời ở đó, vẫn chưa được xem là dân nội tịch. Ở một số nơi “dễ dãi” hơn, người ngụ cư (tức người nơi khác đến) có thể mua “nhiêu”, mua “xã” để vượt “bạch đinh” lên hàng quan viên. Việc này có ý nghĩa khuyến khích sự gánh vác về tài chính đối với công việc chung của làng.
Dân nội tịch lại chia thành nhiều bậc, phản ánh địa vị, trình độ, tuổi tác hay chức vụ:
- Chức sắc: khoa bảng (đậu tú tài, cử nhân) hoặc có chức tước trong triều, quan võ có hàm từ suất đội trở lên…
- Hương chức: những người đang hoặc từng làm việc trong bộ máy làng (lý trưởng, phó lý, chánh – phó tổng…), hoặc mua được hàm nhiêu – xã.
- Thí sinh, khóa sinh: tức những ai đỗ từ sơ học Pháp – Việt, hoặc được khảo hạch trong làng, xếp vào hạng có học.
Cả ba hạng trên gộp lại thành Hội Tư Văn (hoặc quan viên). Muốn chính thức thành “quan viên”, đương sự phải làm lễ khao vọng (có khi chỉ cần mâm cỗ, nộp tiền lệ; có nơi yêu cầu cỗ bàn cực kỳ tốn kém).
- Lão hạng (lão niên, bô lão): những người bước sang tuổi 50 – 55 (tùy làng) hoặc 60 (lên lão). Ai làm đủ lễ khao thì được chính thức xưng là “lão”, khi ra đình ngồi ở chiếu trên, có chỗ danh dự. Nếu thọ 60, 70, 80 tuổi… còn được làng miễn sưu dịch, tỏ lòng tôn kính tuổi tác.
- Dân đinh: gồm nam từ 18 đến 49 tuổi, chịu phần nặng về phu phen, tạp dịch, tuân theo sự sắp đặt của trên.
- Ti ấu: trẻ từ 6 – 7 đến 17, còn trong tuổi “thiếu nhi”. Nếu gia đình nộp đủ lệ, ti ấu được tham gia các phe, giáp, xóm, nhưng không được dự đình trung.
Tất cả những phân định này nhằm duy trì trật tự trong làng. Từ danh xưng, địa vị đến ngôi thứ (thứ bậc khi ngồi đình, thứ bậc lúc tế lễ…), mọi thứ đều tỉ mỉ. Nhờ đó, việc quản lý, tổ chức làng được nhất quán, không lộn xộn.
Dân ngoại tịch: Thân phận và hạn chế
- Dân ngoại tịch đa phần là người nghèo không có tài sản, không phải bản quán (ngụ cư) hoặc chưa đủ ba đời sống tại làng. Họ dẫu siêng năng, song khó có tiếng nói trong làng.
- Không được chia công điền, công thổ, không được tham gia việc làng hay bầu cử.
- Ở nhiều nơi, người muốn đổi từ ngoại tịch sang nội tịch phải đóng một khoản tiền hoặc mua nhiêu – xã. Tuy nhiên, dù có giàu hay đỗ đạt đến đâu, họ cũng khó leo lên các vị trí cao như tứ trụ lão hạng trong làng (bị giới hạn vĩnh viễn hoặc rất lâu).
Rõ ràng, cách sắp xếp này có tính bất công nhìn từ góc độ hiện đại. Thế nhưng, tinh thần thời trước là “đóng góp nhiều, gánh vác nhiều thì được hưởng phần hơn”. Hạng quan viên, chức sắc phải chịu trách nhiệm chỉ huy, lo an ninh, đê điều, các khoản chung… nên họ có quyền lợi xứng đáng. Trong khi đó, dân đinh, dân ngoại tịch chịu gánh vác phu phen. Dĩ nhiên, vẫn có kẽ hở để hình thành cường hào ác bá – nhưng nhìn chung, ở các làng còn thuần phong mỹ tục, lớp trên vẫn lo toan cho dân, dân tôn phục lớp trên.
Tứ dân: Sĩ – Nông – Công – Thương
Bên cạnh cách chia nội tịch, ngoại tịch, dân Việt còn có thói quen truyền thống gọi là Tứ dân: sĩ (người học hành), nông (làm ruộng), công (thợ thủ công), thương (buôn bán).
- Tứ dân không phải đẳng cấp cứng nhắc, mà chủ yếu để xếp nghề nghiệp. Trong làng, thường có một số gia đình nông nghiệp, một số theo buôn bán, một số làm thợ, một số có người học cao (sĩ)…
- Ở miền Bắc, miền Trung, mô hình sĩ – nông – công – thương khá rõ nét. Nhiều làng chủ yếu sống bằng nghề nông, có nhóm nhỏ làm nghề phụ, hoặc có “làng nghề” (làng thêu, làng gốm, làng chài…).
- Ở miền Nam, việc “tứ dân” có chút lỏng lẻo hơn do điều kiện lịch sử mở đất, văn hoá giao thoa, nhưng về cơ bản, người dân vẫn dùng cách gọi quen thuộc khi nhắc đến nghề nghiệp.
Trong các gia đình, một người có thể thay đổi nghề theo nhu cầu sinh kế. Tứ dân chỉ dừng ở mức phân biệt ngành nghề, không “vĩnh viễn” đóng khung địa vị xã hội.
Phân tầng theo quan điểm xã hội
Song song với phân định “nội tịch – ngoại tịch” và “tứ dân”, nhiều nhà nghiên cứu phương Tây còn nhìn xã hội Việt theo 3 tầng lớp: thượng lưu, trung lưu, hạ lưu.
Miền Nam
Thượng lưu: những chủ điền có từ 4 – 5 mẫu ruộng trở lên, có thể cho thuê hoặc mướn người làm. Họ thường nhà ngói, vật dụng sang trọng, đi lại bảnh bao (quần trắng, áo dài đen, guốc…).
Trung lưu: tầm 2 – 4 mẫu ruộng, đời sống khá đủ ăn nhưng vẫn phải tự tay canh tác, kết hợp nuôi gia súc, làm thêm nghề phụ. Nhà có thể lợp lá hoặc cũng có nhà gỗ mái ngói nhưng đơn giản hơn, ít đồ đắt tiền.
Hạ lưu: không ruộng hoặc ruộng quá ít, chủ yếu làm thuê, nhà cửa tuềnh toàng, phải vất vả để mưu sinh. Trong nhóm này, có cả những người thất nghiệp, góa bụa, phải nhờ cậy con cháu.
Tuy cách chia giai cấp này dễ hiểu về mặt kinh tế, nó không tương đồng với sự phân hạng nội tịch, ngoại tịch hay chức sắc, hương chức. Một ông nghèo nhưng thuộc “dân nội tịch” ba đời vẫn được tham gia lễ làng, có tiếng nói nơi đình trung, hoặc có tuổi tác cao vẫn thuộc lão hạng, được kính trọng.
Miền Bắc và miền Trung
Thượng lưu: những người có học vấn, có địa vị hoặc có uy tín, đạo đức. Dù tiền bạc ít hay nhiều, nếu giữ nếp nhà, giữ sĩ diện thì vẫn được trọng. Thông thường, các “bậc thượng lưu” gồm quan lại, nhà Nho, các gia đình gia thế.
Trung lưu: đa số là người lương thiện, trình độ học vấn trung bình, không giàu sang nhưng cũng không phải hạng bần cùng. Họ thể hiện nhân cách đàng hoàng, giữ gìn đạo đức, không tham gia trộm cắp hay cờ bạc.
Hạ lưu: bị coi khinh về nhân phẩm (hay “hạ lưu đen”), gồm những kẻ có án tích, trộm cướp, hoặc quá nghèo khổ mà không biết giữ “giấy rách phải giữ lấy lề”. Cũng có khi, người phụ bạc, ngoại tình, hành xử trái luân thường bị dân làng xếp vào nhóm này.
Điểm đáng chú ý: Ở thôn quê, một người vốn hạ lưu (đã từng mang tiếng xấu) vẫn có thể thay đổi khi có công chuộc lỗi, hoặc làm lễ khao để được dự vào việc làng. Từ đó, họ nhận được sự đánh giá khác của dân làng.
Phân tầng theo tuổi tác
Bên cạnh phân chia quyền lợi (chức sắc, hương chức, lão hạng…) hay giai cấp, người ta còn để ý đến niên kỷ khi nói về sự tôn ti trật tự trong làng.
Bậc cao niên
Người già dù giàu hay nghèo, nam hay nữ, đều được kính trọng. Văn hóa Việt coi tuổi tác là biểu tượng cho kinh nghiệm và đạo đức. Các tiệc rước lão, yến lão (bữa tiệc dành cho người thượng thọ) cho thấy dân làng trân trọng bậc cao niên ra sao.
Có nơi, rước lão: mời các cụ (từ 50, 55 hay 60 tuổi) ngồi trên võng, cáng, đám rước kéo dài qua các ngả đường, rồi vào đình.
Sau rước là yến lão: tiệc linh đình tại đình, có ca nhạc, bát âm, cỗ bàn. Các cụ được ngồi chiếu trên, dân làng mang lòng tôn kính với tuổi tác.
Khi lên 60 (thường gọi “lão hạng”), các cụ được miễn sưu dịch, có chỗ ngồi tôn nghiêm trong đình, khẳng định giá trị của người cao tuổi.
Người đã thành gia lập thất
Gồm những ai đã qua tuổi trai gái, đã yên bề gia thất, hoặc tạm gọi là 30 – 40 – 50, nhưng chưa tới 60.
Đây là lực lượng lao động chủ chốt, trụ cột gia đình, lo phu phen tạp dịch, cày cuốc, buôn bán.
Xét về lễ giáo, đàn ông có vợ, đàn bà có chồng buộc phải giữ đức hạnh, tránh chuyện ong bướm. Phụ nữ ngoại tình dễ bị xử nặng (thậm chí bè chuối trôi sông trong hủ tục xưa). Đây chính là tiêu chuẩn luân lý để bảo vệ gia đình làng xã.
Trai gái trong làng
Tuổi “dậy thì” (thường từ 13 – 16 cho nữ, 16 – 18 cho nam), chưa lập gia đình, còn dồi dào nhựa sống, thích tụ họp. Họ làm làng xóm thêm vui, thường “gây náo nhiệt” trong đám hội, ngày mùa, sân đình, chợ búa…
Thời xưa, trai gái làng hay hò hát, đối đáp, trao duyên qua trầu cau, qua các câu ca dao. Họ cùng đi cấy, gặt, hoặc chăn trâu, dệt lụa, đi chợ. Những câu hát tỏ tình đã trở thành di sản văn hóa qua bao thế hệ.
Họ có thể yêu đương, nhưng muốn kết hôn phải tuân theo lễ tục: dạm hỏi, cưới xin, khao cưới, được gia đình đôi bên đồng thuận…
Nếu có chuyện cản trở, ép duyên, lại tạo nên những mối tình ngang trái, xuất hiện vô số câu ca dao ngậm ngùi. Hoặc nếu tự do hẹn hò mà không cưới được, cũng nảy sinh nỗi sầu tương tư.
Chính lứa tuổi “trai gái” góp phần thổi sức sống cho làng. Không khí tình tứ, vui tươi, hòa cùng lao động, sản xuất khiến cảnh quê thêm rộn ràng.
Trẻ em
Trẻ con (dưới 6 – 7 là còn “bé xíu”, từ 7 – 17 một số nơi gọi “ti ấu”), chưa phải gánh vác nhiều. Chúng đi học, chơi đùa, hoặc giúp bố mẹ việc vặt như chăn trâu, trông em…
Chăn trâu: hình ảnh cậu bé mục đồng cưỡi trâu, đầu đội nón mê, đi thổi sáo, rất phổ biến. Đấy là “trường học tự nhiên” rèn cho trẻ sự dẻo dai, tự lập, tình đồng đội.
Nhiều người anh hùng lịch sử, truyền thuyết xuất thân từ lũy tre (Đinh Bộ Lĩnh “cờ lau tập trận”, Yết Kiêu vùng sông nước…), cho thấy vai trò quan trọng của tuổi thiếu niên nơi đồng ruộng.
Ở nhà, trẻ con còn bế em, đỡ đần cha mẹ, và được người lớn dạy dỗ: phải kính già, nhường trên, cố học hành để mai sau làm rạng danh gia đình.
Ý nghĩa trong sự phân tầng
Dù phân ra dân nội tịch, ngoại tịch, hay thượng – trung – hạ lưu, hoặc tách bạch theo tuổi tác, thì nguyên tắc chung vẫn là để duy trì nề nếp, giữ gìn sự ổn định.
Nhiều người hiện đại có thể cảm thấy sự phân cấp ấy nặng nề, nhưng xưa kia, làng là đơn vị tự quản, có phép vua nhưng lệ làng vẫn là rường cột. Lệ làng duy trì kỷ cương, để không ai dám làm càn, và cũng để khuyến khích những ai thật sự có năng lực, có công đóng góp:
- Kẻ bạch đinh nghèo nhưng đóng góp tiền cho làng được mua “nhiêu”, “xã” để lên hàng quan viên.
- Người học hành giỏi cũng được đề cao (điển hình là hạng thí sinh, khóa sinh).
- Tuổi cao được miễn sưu dịch, có chỗ ngồi tôn kính.
Quan trọng hơn, sự tôn ti trật tự đó giúp dân làng đoàn kết. Đến mùa gặt, dân đinh ra đồng sôi nổi, giữ đê cũng dân đinh gánh vác, khi làng có việc lớn lại họp ở đình, chức sắc chủ trì, lão hạng góp ý kinh nghiệm, dân đinh thực thi, ti ấu thì học hỏi dần… Ai cũng có vai trò, tạo thành một guồng máy xã hội khép kín.
Nhờ vậy, bao đời nay, nhiều làng quê Việt Nam dù nghèo khó vẫn giữ được cái “hồn” của nông thôn, luôn đùm bọc nhau, xem tập thể là trên hết. Khi ngoại xâm đến, làng cũng là nơi chiến đấu kiên cường. Thực dân Pháp, hay bất cứ triều đại xâm lược nào, từng dùng “chia để trị” để lung lạc, nhưng cuối cùng tính cố kết cộng đồng của làng Việt vẫn giúp dân ta bền vững.
Tóm lại, việc phân hạng, phân tầng trong làng, ở cả miền Bắc, Trung hay Nam, có thể hơi khuôn phép, chặt chẽ so với xã hội đô thị hiện đại. Song trong bối cảnh xưa, đây chính là trật tự cần thiết, đảm bảo cho “lũy tre” vững vàng qua bao biến thiên.
“Làng có mạnh, nước mới mạnh.
Lệ làng bền chặt, quốc gia thêm vững.”
Từ dân nội tịch nắm quyền quyết định, dân ngoại tịch chưa đủ gốc, đến lão hạng, dân đinh, ti ấu, hay thượng – trung – hạ lưu… tất cả tuy có phân biệt mà vẫn hòa hợp, vì tình làng nghĩa xóm là sợi dây cột chặt con người với mảnh đất quê hương. Và đó cũng chính là nét độc đáo, là cốt lõi văn hóa Việt mà dẫu thời gian có trôi, làng vẫn là nơi gắn bó nhất trong tim mỗi người.