Đạo Cao Đài là một trong những tôn giáo ra đời tại Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Tín đồ Cao Đài tin rằng chính Ngọc Hoàng Thượng Đế, tên đầy đủ là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát) sáng lập tôn giáo này và trực tiếp ban giáo lý.
Ngày nay, Đạo Cao Đài có hàng triệu tín đồ cùng hàng ngàn thánh thất, tịnh thất trải rộng khắp Việt Nam và trên thế giới. Bài viết này giới thiệu khái quát về nguồn gốc, ý nghĩa danh xưng, lược sử hình thành và giáo thuyết của Đạo Cao Đài, cùng những đặc điểm tổ chức và phân chia chi phái.

“Cao Đài” nghĩa là gì?
Hai chữ “Cao Đài” vừa biểu trưng cho một thực tại vừa bao hàm tính khái niệm. Đặc biệt, đây còn là danh xưng thiêng liêng của một tôn giáo đang có hơn bốn triệu tín đồ. Xét về mặt từ nguyên, “Cao” mang nghĩa là cao cả, tài giỏi; “Đài” là cái đài, cái tháp. Ba tầng nghĩa của “Cao Đài” trong bối cảnh tôn giáo như sau:
- Cao Đài là cái đài cao đặt tại cõi thiêng liêng, nơi Đấng Thượng đế ngự mỗi khi có Đại hội Thiên cung.
- Cao Đài là danh xưng của chính Ngọc hoàng Thượng đế – Đấng Tạo hóa càn khôn Vũ trụ, đồng thời là “Thầy” của muôn loài.
- Cao Đài cũng là tên tôn giáo do Ngọc hoàng Thượng đế lập ra, gọi đủ là “Cao Đài Đại đạo Tam kỳ Phổ độ”.

Lược sử đạo Cao Đài
Lịch sử hình thành Đạo Cao Đài gắn liền với tên tuổi của Đức Ngô Văn Chiêu (1878-1932). Ngài xuất thân trong dòng quan lại ở Huế, sau này gia đình chuyển cư về Sài Gòn. Ngài học xong trường Chasseloup Laubat rồi vào làm công chức tại Dinh Thượng thư Nam Kỳ, nổi tiếng là người thanh liêm, không màng lợi danh.

Thời Kỳ Tiên Khởi
Vào khoảng thập niên 1910, khi Ngài Ngô Văn Chiêu công tác ở Tân An (Long An), phong trào cầu cơ thỉnh Tiên bắt đầu nở rộ. Sau đó, Ngài được một vị Tiên Ông giáng cơ khuyên răn, đến năm 1920 thì Ngài chuyển ra Hà Tiên và rồi về làm quận trưởng Phú Quốc. Tại núi Đơn Dương (Phú Quốc), một vị Tiên Ông giáng cơ dạy Ngài phải ăn chay trọn 10 ngày, tiếp đó là trường trai 3 năm để được thu nhận làm đệ tử.
Kể từ mùng 8 tháng 2 năm 1921, Ngài bắt đầu trường trai học đạo, được chỉ dạy tâm pháp huyền vi. Trong một lần trầm tư mặc tưởng trên biển, Ngài được thấy cõi bồng lai, và một hôm trong nhà bỗng xuất hiện Con Mắt (Thiên Nhãn) tỏa hào quang rực rỡ. Qua cơ bút, vị “Tiên Ông” này xưng rõ danh hiệu là Ngọc hoàng Thượng đế, hiệu Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ tát Ma-ha-tát, khai mở Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ và dạy Ngài vẽ Thiên Nhãn để thờ. Từ đó, Ngài Ngô Văn Chiêu trở thành môn đồ đầu tiên của Đức Chí tôn.
Về sau, tháng 7 năm 1924, Ngài thuyên chuyển về Sài Gòn. Cuối năm 1925, Ngài bắt đầu phổ độ một số ông như Vương Quan Kỳ, Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang, Đoàn Văn Bản… để khai truyền mối đạo mới.

Phong trào cầu cơ ở Sài Gòn
Cùng thời gian ấy, ở Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định, cũng nổi lên nhóm cầu cơ khác, trong đó có ông Phạm Công Tắc và mấy vị công chức. Họ thường tụ họp nhau cầu cơ tại nhà ông Cao Hoài Sang (phố Hàng Dừa). Đấng vô hình ban đầu xưng là A Ă Â, bảo họ xưng là “Thầy”, rồi đêm Giáng sinh (25.12.1925), Ngài xưng rõ:
“NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ viết CAO ĐÀI giáo đạo Nam Phương.”
với lời dạy:
“Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền…”
Từ đó, bốn vị công chức trở thành đệ tử, về sau mời thêm ông Lê Văn Trung (cựu Hội đồng Thượng nghị viện Đông Dương) nhập đạo.
Tờ Khai Đạo và Đại lễ Khai Đạo
Ngài Lê Văn Trung (1876-1934) là một nhân vật trụ cột của Đạo Cao Đài những năm đầu. Vốn xuất thân từ môi trường học vấn Tây học, từng làm Thư ký Dinh Thống đốc Nam Kỳ và cũng từng làm Nghị viên Hội đồng Quản hạt. Đến khoảng năm 1920, kinh doanh thất bại, Ngài chán nản rơi vào tình cảnh hút thuốc phiện, bệnh mắt nặng. Sau khi được Đức Chí tôn giáng cơ độ, Ngài Lê Văn Trung bỏ hết tật xấu, rạng dần thị lực và có nhiều công lao trong việc tổ chức khai Đạo.

Ngày 22 tháng Giêng năm 1926, Đức Chí tôn dạy nhóm Ngài Cao Quỳnh Cư phải đến hội cùng nhóm Ngài Ngô Văn Chiêu để lo việc Khai Đạo. Thầy (Đức Chí tôn) xác nhận Ngài Ngô Văn Chiêu là anh cả trong Đạo. Đến mùng 1 tháng Giêng năm Bính Dần (13.2.1926), tại nhà Lê Văn Trung, Đức Chí tôn ban Thánh giáo cho Ngài Ngô Văn Chiêu, nhắc Ngài giữ lời hứa truyền Đạo cứu đời. Đêm ấy là ngày Khai cơ Phổ độ.
Ngày mùng 8 tháng Giêng năm Bính Dần, lễ Vía Đức Chí tôn tổ chức tại nhà Vương Quan Kỳ, ban một bài thơ bốn câu, ghi đủ tên mười hai vị môn đệ đầu tiên. Sau đó, hàng loạt chức sắc và tín đồ mới lần lượt nhập Đạo, chư thánh thất cũng lần lượt thành lập ở các tỉnh.
Bài thơ như sau:
Câu 1: Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh,
Câu 2: Bản đạo khai Sang Quí Giảng thành.
Câu 3: Hậu Ðức Tắc Cư Thiên Ðịa cảnh,
Câu 4: Huờn Minh Mân đáo thủ đài danh.
(Mười hai chữ in hoa lớn trong ba câu trên là tên của mười hai người môn đệ trước hết của Ðức Ngọc hoàng Thượng đế. Còn ba chữ in nghiêng trong câu chót là tên của ba đồng tử hầu đàn).
Tên đầy đủ của các vị theo thứ tự trong bài thơ này là:
- Ngô Văn Chiêu (1878-1932);
- Vương Quan Kỳ (1880 – 1940 );
- Lê Văn Trung (1876-1934);
- Nguyễn Văn Hoài (?-?);
- Đoàn Văn Bản ((1876-1941);
- Cao Hoài Sang (1900-1971),
- Lý Trọng Quí (?-?);
- Lê Văn Giảng (1876-1941),
- Nguyễn Trung Hậu (1892-1961);
- Trương Hữu Đức (1890-1976)
- Phạm Công Tắc (1980-1959);
- Cao Quỳnh Cư (1887- 1929).
Ngày 23 tháng 8 năm Bính Dần (1926), 28 vị cầm quyền Đạo cùng 247 đạo hữu ký Tờ Khai Đạo gửi cho Thống đốc Nam Kỳ, chỉ là một bản tuyên bố chính thức ra mắt chứ không xin phép. Rồi đúng rằm tháng 10 năm Bính Dần (19.11.1926), mượn chùa Thiền Lâm ở Gò Kén (Tây Ninh), Đạo Cao Đài tổ chức Đại lễ Khai Đạo, có đủ quan chức Pháp và đại diện các tôn giáo khác tham dự.

Tòa thánh Tây Ninh và việc phân nhánh
Đầu năm 1927, Ngài Ngô Văn Chiêu xin tách khỏi Cơ Phổ độ, lập Chiếu Minh Tam Thanh Vô vi, gọi tắt là Chiếu Minh Vô vi, tiếp tục tu đan và trường trai, vẫn thờ Đức Ngọc hoàng Thượng đế. Khi Ngài Chiêu rời đi, Đức Lý Thái Bạch (Nhất trấn Oai nghiêm) được giao chức Giáo tông vô vi, còn Ngài Lê Văn Trung giữ Quyền Giáo tông tại thế. Đến năm 1931, khởi công xây Tòa Thánh Tây Ninh, mang kiến trúc độc đáo, hợp nhất tinh hoa các tôn giáo lớn, nhưng cũng khởi đầu thời kỳ nội bộ phân chia thành nhiều chi phái.

Giáo thuyết của đạo Cao Đài
Theo giáo lý Cao Đài, “Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ” do chính Đức Thượng đế sáng lập và trực tiếp làm Giáo chủ. Qua cơ bút, giáo lý được truyền dạy rõ ràng.
- Đại Đạo: con đường lớn để con người tu học, tu luyện, cuối cùng trở về với Thượng đế.
- Tam Kỳ Phổ Độ: kỳ thứ ba trong ba thời kỳ cứu rỗi của Đấng Tạo hóa. Nhất kỳ và Nhị kỳ tương ứng với thời khai Đạo của Phật, Thánh, Tiên, gắn với các giáo chủ như Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử, Giê-su… Tam kỳ là thời cuối cùng, chính Đấng Thượng đế giáng trần, độ tận sinh linh để chuẩn bị Tận thế, lập đời Thánh đức.
Đạo Cao Đài tổng hợp triết lý của Tam giáo (Nho – Phật – Lão), cộng với Thánh giáo được linh truyền qua cơ bút, hình thành nền Tam giáo Đồng nguyên, Ngũ chi Phục nhất. Về mặt thực hành, Cao Đài kết hợp những quy định của Nho giáo (Tam cương, Ngũ thường), Phật giáo (Ăn chay, Ngũ giới, Thiền định), Lão giáo (Luyện Tinh – Khí – Thần), Thiên Chúa giáo (Phẩm trật hàng giáo phẩm, thờ Thượng đế)…
Vũ trụ quan
Đạo Cao Đài quan niệm Vũ trụ do Đức Ngọc hoàng Thượng đế – tức Thái cực – tạo dựng. Vũ trụ có hai phần:
- Phần Vô hình: 36 tầng trời, 4 bộ Châu lớn ở thượng tầng không khí, có Ngọc Hư Cung là nơi Đức Chí tôn và Chư Phật Thánh Tiên Thần định đoạt Thiên điều.
- Phần Hữu hình: gồm 3.000 thế giới và 72 quả địa cầu, trong đó Địa cầu 68 là nơi loài người sinh sống.
Nhân sinh quan
Con người gồm ba thể: Thể xác (hữu hình), Linh hồn (vô hình) và Chơn thần (bán hữu hình). Khi chết, thân xác trở về cát bụi, linh hồn và chơn thần trình diện Đấng Chí tôn, chịu xét công tội, rồi tùy duyên tiếp tục luân hồi hay tiến hóa lên cõi Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Mục đích tu học của tín đồ Cao Đài là hoàn thiện để trở thành “tiểu Thượng đế”, đạt đến sự hiệp nhất với Đức Chí tôn. Đời người liên tục nối nhau: sống ở cõi thiêng liêng, rồi xuống cõi trần học tập, trả nghiệp. Cứ thế, con người sẽ dần dần tiến hóa đến lúc “xuất mê hồi tỉnh”, trở về cùng Thượng đế.
“Người xả thân mưu cầu lợi chúng,
Làm ích chung quốc chúng an hòa…
“Gieo tư tưởng cộng hòa đoàn thể,
Chỉ phương tu đọat hóa thánh tiên”
(ĐTCG, sđd, tr.154)Kinh Đại Thừa Chân Giáo của Cao Đài
Con đường tu học
Nhìn chung, con đường tu học của đạo Cao Đài đi theo tiến trình sau:
- Học giáo lý: tìm hiểu các kinh sách Cao Đài (Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Thánh ngôn Hợp tuyển…), kết hợp yếu lý của Tam giáo, tôn giáo lớn.
- Giữ giới: Tín đồ chia thành Hạ thừa (ăn chay mỗi tháng 6 ngày, sau 6 tháng tăng lên 10 ngày) và Thượng thừa (ăn chay trường). Ai cũng phải giữ Ngũ giới cấm (không sát sanh, không rượu thịt, không tà dâm, không trộm cắp, không nói dối).
- Giữ Đạo lý luân thường: Áp dụng Tam cương, Ngũ thường (Nho học), sống hiếu nghĩa gia đình – xã hội.
- Giữ Tứ đại điều qui: rèn cách ứng xử, khiêm cung, không khoe tài, tôn kính người trên, yêu thương người dưới, giữ lòng trung chính trước sau như một.
- Luyện Tinh – Khí – Thần (Tam Bửu): Phương pháp thượng thừa kết hợp tọa thiền, điều tức, giúp hợp nhất Tam Bảo ở Nê Hoàn cung, nhằm xuất thần giao tiếp với cõi thiêng liêng.
- Thiền định: Giữ tâm vô niệm, chánh niệm, không để các thói hư, dục vọng quấy nhiễu.
Nghi lễ và thờ phụng
Đạo Cao Đài có nghi lễ giản dị nhưng vẫn trang nghiêm. Tín đồ có thể cầu nguyện tại tư gia hoặc thánh thất. Hình ảnh thờ phụng chính là Thiên Nhãn, biểu trưng cho Đức Ngọc hoàng Thượng đế. Mỗi ngày, người tu hành cúng tứ thời vào giờ Tý (00 giờ), Mẹo (06 giờ), Ngọ (12 giờ) và Dậu (18 giờ).
Lễ vật dâng cúng tượng trưng cho Tinh – Khí – Thần qua việc dùng hoa, trà, rượu và đốt trầm. Thứ tự cúng: sáng – chiều dâng nước trà, trưa – đêm dâng rượu.
Vào sóc (mùng 1) và vọng (rằm) hằng tháng, tín đồ tập trung về thánh thất làm lễ, ngoài ra còn có các ngày đại lễ, giỗ kỵ, hôn phối, nhập đạo. Nhạc lễ chủ yếu là nhạc dân tộc với bát âm, kết hợp trống, mõ, chiêng, kèn, tiêu…

Đạo Cao Đài có một số ngày lễ lớn trong năm theo âm lịch, bao gồm:
- Mùng 9 tháng Giêng: Đại lễ Vía Đức Chí Tôn, tôn kính Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đấng khai sáng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
- Rằm tháng 8: Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, tôn vinh Đức Diêu Trì Kim Mẫu, được tổ chức tại Tòa Thánh Tây Ninh.
- Rằm tháng 10: Lễ kỷ niệm Khai Đạo, đánh dấu ngày khai sáng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ngoài ra, Đạo Cao Đài còn có các ngày lễ khác như:
- Rằm tháng Giêng: Lễ Thượng Ngươn, đánh dấu bắt đầu một năm mới.
- Rằm tháng 7: Lễ Trung Ngươn, giữa năm.
- Rằm tháng 10: Lễ Hạ Ngươn, cuối năm.
Mỗi ngày lễ mang ý nghĩa riêng và được tổ chức với các nghi thức trang trọng, thu hút đông đảo tín đồ tham gia.

Tổ chức của đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài tổ chức rất quy củ, có Trung ương (Tòa Thánh), các cơ quan ba đài là Bát quái đài, Cửu trùng đài và Hiệp thiên đài, tương ứng với hồn, xác và sự trung gian “bán hữu hình” của Đạo.
- Bát quái đài: Tượng trưng cho hồn của Đạo, do Đức Chí tôn và Chư Phật, Thánh, Tiên, Thần cai quản, chưởng quản siêu rỗi các linh hồn.
- Cửu trùng đài: Tượng trưng cho thể xác hữu hình của Đạo, do Giáo tông tại thế nắm quyền hành chánh. Phẩm bậc từ Giáo tông, Chưởng pháp, Đầu sư, Phối sư, Giáo sư, Giáo hữu, Lễ sinh, Chức việc…
- Hiệp thiên đài: Là bán hữu hình, trung gian giữa vô vi (Bát quái đài) và hữu hình (Cửu trùng đài), do Hộ pháp chưởng quản.
Cơ cấu Đạo còn có các Hội đồng và Ban Trị sự. Ở cấp địa phương, gọi là Họ đạo hoặc Tỉnh đạo, có thánh thất (còn gọi dân gian là “chùa”) lo phần lễ bái. Tín đồ có thể sống tại gia hoặc vào tịnh thất tu tập. Một số tín đồ trở thành chức sắc Thiên phong và tham gia điều hành việc Đạo.
Thời kỳ mở mang và phân nhánh
Với sức lan tỏa mãnh liệt, Đạo Cao Đài nhanh chóng thu hút đông đảo tín đồ. Tuy nhiên, do đặc thù “phổ độ tùy căn cơ”, các chi phái bắt đầu xuất hiện. Tiêu biểu có:
- Chiếu Minh (do Ngài Ngô Minh Chiêu) chuyên tu đan, luyện bí pháp Vô vi.
- Minh Chơn Lý, Tiên Thiên, Minh Chơn Đạo, Ban Chỉnh Đạo (Bến Tre), Bạch Y Liên Đoàn, Cầu Kho (Nam Thành Thánh thất, Sài Gòn)…
- Ngoài ra có một số phái khác như Hội Thánh Truyền giáo Cao Đài (đà phát triển mạnh ở miền Trung), Thông Thiên Đài, Tây Tông Vô Cực, Tuyệt Cốc…
Hầu hết các chi phái Cao Đài đều tôn cùng một Thầy là Thượng đế Chí tôn, cùng thờ Thiên Nhãn, tôn kính Thánh ngôn Hợp tuyển, Tân Luật và Pháp Chánh truyền. Sự khác biệt phần lớn ở phương pháp tu tập cụ thể hoặc một số chi tiết về nghi lễ, trang phục. Dẫu chia phái, đa số tín đồ vẫn giữ tâm niệm hòa ái, tôn trọng lẫn nhau.
Từ năm 1945 trở đi, nhiều nhân vật uy tín như ông Phan Khắc Sửu, ông Trần Văn Quế… đã nỗ lực vận động hiệp nhất các chi phái về lại Tòa thánh Tây Ninh hoặc tập hợp thành một hội đồng chung. Tuy kết quả chưa đi đến sự thống nhất hoàn toàn, song tinh thần “chung Thầy, chung Đạo” vẫn là điểm son trong lòng người Cao Đài. Sự lan tỏa của nền Đạo thể hiện qua hàng loạt thánh thất, tịnh thất, nơi sinh hoạt tập trung, nhằm phổ độ nhân sinh và giữ gìn cốt lõi giáo lý.
Kết luận
Đạo Cao Đài ra đời tại Việt Nam và phát triển nhanh chóng nhờ nhu cầu tâm linh, khát vọng tìm về chân lý của xã hội đầu thế kỷ XX. Xoay quanh ba trụ cột giáo lý (Nho, Phật, Lão) và chịu ảnh hưởng thêm từ Thiên Chúa giáo, Đạo Cao Đài xác lập cho mình một tổng thể vừa truyền thống, vừa mang màu sắc hiện đại. Dù trải qua quá trình phân chia chi phái, nền tảng chung của Đạo Cao Đài vẫn là:
- Tôn thờ và nương theo Thượng đế Chí tôn – Đấng Cha Lành của muôn loài.
- Tu tập để thăng hoa Linh hồn, chơn thần, từng bước tiến hóa thành Thần, Thánh, Tiên, Phật, cuối cùng hợp nhất cùng Thượng đế.
- Giữ nếp sống luân thường, đạo đức, tránh xa tham – sân – si, thực hành ăn chay, giữ Ngũ giới, Tứ đại điều qui…
- Tạo điều kiện cho cộng đồng tu học, thành lập các thánh thất, tịnh thất, nghi lễ hài hòa, lấy căn bản là tinh thần “Tam giáo đồng nguyên, Ngũ chi phục nhất”.
Trải gần một thế kỷ, Đạo Cao Đài đã khẳng định tầm ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tôn giáo – văn hóa của người Việt trong nước cũng như cộng đồng hải ngoại. Sự tồn tại và phát triển ấy đến nay vẫn tiếp tục đà mở mang, phù hợp với tinh thần “Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ” nhằm cứu độ toàn thể nhân sinh, với niềm tin rằng muôn người cùng sẽ được hưởng ơn thiêng của Thượng đế để trở về hội hiệp trong cõi Thánh đức của vũ trụ.