Lịch Sử Việt Nam

Giả thuyết kho tàng quân Nguyên dưới đáy Vịnh Hạ Long

Nếu có dự án tìm kiếm kho tàng quân lương, khí giới của quân Nguyên dưới đáy vịnh Hạ Long, rất có thể sẽ giải đáp nhiều nghi vấn lịch sử

Nguồn: Biên Soạn
kho bau quan nguyen

ĐVSKTT tr.60 chép:

Ngày 30-12-1287, thái tử Nguyên A Thai cùng Ô Mã Nhi họp 30 vạn quân đánh Vạn Kiếp rồi thuận dòng xuôi về đông. Người các hướng Ba Điểm, Bàng Hà đều đầu hàng chúng.

Khi ấy, thủy quân Nguyên đánh vào Vân Đồn, Hưng Đạo Vương giao hết công việc biên thùy cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Khánh Dư đánh thất lợi, thượng hoàng được tin, sai trung sứ xiềng Khánh Dư giải về kinh. Khánh Dư nói:

“Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày để mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn.”

Trung sứ theo lời xin đó.

Khánh Dư liệu biết quân giặc đã qua, thuyền vận tải tất theo sau, nên thu thập tàn binh đợi chúng. Chẳng bao lâu thuyền vận tải quả nhiên đến, Khánh Dư đánh bại chúng, bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất nhiều…

Trong khi đó, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Chb. VIII,4 trang 532 chép:

“Khánh Dư đoán chắc thuyền của giặc đã đi qua rồi, thì thuyền tải lương tất theo sau, liền thu thập tàn quân, sẵn sàng chờ đợi. Một lát sau, quả nhiên thuyền tải lương của Văn Hổ đến, Khánh Dư đón đánh, quân Nguyên bị thua to. Khi đi đến biển Lục Thủy, thuyền của quân Nguyên bị mắc cạn, sa lầy, không chở đi được, lương thực chìm cả xuống biển. Khánh Dư bắt được khí giới, quân nhu rất nhiều. Văn Hổ chỉ thoát được một mình, vội vàng chạy về Quỳnh Châu…”

Trong Nguyên Sử q.209 An Nam Truyện trang 9b – 10a có đoạn:

“Thuyền lương của Trương Văn Hổ tháng 12 năm ngoái đến Đồn Sơn, gặp 30 chiếc thuyền của Giao Chỉ. Văn Hổ đánh, số giết được tương đương nhau. Đến biển Lục Thủy, thuyền giặc thêm nhiều, liệu không thể địch nổi mà thuyền lại nặng không thể đi được nên đổ thóc xuống biển rồi đi Quỳnh Châu.”

Trong sách Cuộc Kháng Chiến Chống Xâm Lược Nguyên Mông Thế Kỷ XIII của Hà Văn Tấn & Phạm Thị Tâm (tr.267), mô tả:

Sau khi tách khỏi đoàn quân Thoát Hoan ở Lai Tân ngày 28-10 âm lịch (4-12-1287), Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đi Khâm Châu. Từ đây, đoàn thuyền của chúng xuất phát, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đem 1 vạn 8 nghìn quân, bọn Ô Vỵ, Trương Ngọc, Lưu Khuê đem vài vạn quân. Trương Văn Hổ đi với thuyền lương…

…Ô Mã Nhi sau khi qua được cửa An Bang, đã theo sông Bạch Đằng tiến về phía Vạn Kiếp. Hắn tưởng rằng quân ta không thể ngăn trở đoàn thuyền lương đi sau được nữa nên cứ tiến thẳng, không chú ý đến Trương Văn Hổ…

…Khánh Dư đã củng cố lực lượng đón địch. Quả nhiên, mọi việc xảy ra đúng như dự đoán. Tháng 12 âm lịch (5-1 – 2-2-1288), đoàn thuyền lương nặng nề của Trương Văn Hổ, không có lực lượng chiến đấu mạnh mẽ yểm hộ, đã chậm chạp tiến vào Hạ Long, lọt vào trận địa của Nhân Huệ Vương. Thủy quân ta tập kích thuyền giặc ở Vân Đồn (Vân Hải). Trương Văn Hổ cố gắng tiến về đất liền nhưng đến biển Lục Thủy (cửa Lục, Hòn Gai) thì thuyền quân ta đổ ra đánh càng đông. Trương Văn Hổ đại bại, đổ cả thóc xuống biển, trốn chạy về Quỳnh Châu…

Còn Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược trang 151, ông viết:

“Ô Mã Nhi đem thuyền đi đến ải Vân Dồn (Vân Hải, Quảng Yên) gặp quân của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư chặn đường không cho đi, Ô Mã Nhi thúc quân đánh rát một trận, quân Khánh Dư thua bỏ chạy cả. Quân Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền lương… Được mấy hôm, Ô Mã Nhi ra bể gặp thuyền lương của Trương Văn Hổ, lại đem quân trở vào đi trước dẹp đường, Trương Văn Hổ đem thuyền lương theo vào sau… Trương Văn Hổ tải các thuyền lương vào cửa bể Lục Thủy Dương (phía đông nam huyện Hoành Bồ tức là vịnh Cửa Lục bây giờ). Khánh Dư đổ quân ra đánh, Văn Hổ địch không nổi, bao nhiêu thuyền lương bị quân Khánh Dư phá cướp mất cả, và bắt được khí giới rất nhiều…”

Trong Việt Sử Tân Biên của Phạm Văn Sơn, Nhà xuất bản Văn Hữu Á Châu Sài Gòn 1958 quyển II, trang 216, lại viết:

“Trương Văn Hổ cho thuyền lương từ từ tiến vào cửa Lục (Lục Thủy Dương là cửa biển gần Hòn Gai, tỉnh Quảng Yên). Tại đây, thuyền lương mắc cạn, quân ta phục sẵn ùa ra đánh, thuyền của địch bị đắm gần hết…”

Trong một cuốn sách du lịch thường được bán khi đi Hạ Long – Cát Bà – Quảng Ninh là “Hạ Long Đá và Nước” của Nguyễn Ngọc, Nhà xuất bản Thế Giới – Hà Nội 1999, trang 66, ghi:

“Đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ… qua khỏi đảo Ba Mùn vì sóng gió lớn, chúng buộc phải chọn con đường vào cửa Đối, rồi men theo luồng nước hẹp gọi là sông Mang và sông Cái giữa hai đảo Cái Bàn và Vân Hải… rồi từng bước dụ chúng vào vịnh Cửa Lục… Khánh Dư một mặt thắt chặt miệng túi của Lục lại, một mặt cho quân từ sông Bạch Đằng bốn mặt đổ ra tập kích…”

Có thể tóm tắt các tư liệu chính như sau:

  • Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT): Thủy quân Nguyên đánh vào Vân Đồn, Khánh Dư đợi thuyền vận tải đến, đánh bại chúng, bắt nhiều quân lương khí giới.
  • Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục: Đến biển Lục Thủy, thuyền quân Nguyên mắc cạn, lương thực chìm, Khánh Dư bắt được nhiều khí giới.
  • Hà Văn Tấn & Phạm Thị Tâm (tr.267): Thuyền lương nặng nề tiến chậm vào Hạ Long, bị tập kích ở Vân Đồn, đến biển Lục Thủy (cửa Lục, Hòn Gai) thì vấp phải lực lượng ta đông hơn.
  • Trần Trọng Kim (Việt Nam Sử Lược, tr.151): Vân Dồn – Vân Hải, Quảng Yên. Thuyền lương vào cửa Lục Thủy Dương, Khánh Dư đổ quân đánh, “bao nhiêu thuyền lương bị phá cướp hết cả”.
  • Việt Sử Tân Biên: Tàu lương mắc cạn tại cửa Lục Thủy, quân ta phục sẵn, địch bị đắm gần hết.
  • “Hạ Long Đá và Nước”: Thuyền qua đảo Ba Mùn, vào cửa Đối, đi giữa đảo Cái Bàn và Vân Hải, rồi sa vào vịnh Cửa Lục.

Vậy đâu là hải trình thật của thuyền lương do Giao Chỉ Hải Thuyền Vạn Hộ Trương Văn Hổ chỉ huy và tọa độ trận đánh tiêu diệt chúng của danh tướng Trần Khánh Dư? Giải được câu hỏi này đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ tìm ra…!!

Trước hết, cần xác định một số địa danh cũ và đánh dấu nó trên bản đồ hiện tại:

  • Vân Đồn
  • Biển Lục Thủy (cửa Lục, Hòn Gai)
  • Ải Vân Dồn (Vân Hải, Quảng Yên)
  • Đảo Ba Mùn, Cửa Đối, Đảo Cái Bàn, Vân Hải
  • Bạch Đằng, Mũi Ngọc

Theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Chb. VIII,4 trang 533, Biển Lục Thủy ở phía đông nam huyện Hoành Bồ, cách huyện 17 dặm (hiện tại là vùng phía tây nam đảo Cát Bà – Phù Long và thị trấn Cát Hải). Gọi là “Lục Thủy” vì nước biển có màu xanh lục (màu “vert”), giống như có biển gọi là Biển Đen, Hồng Hải… Khu vực vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, vịnh Vân Đồn, Lan Hạ, Cát Bà nhìn chung đều có màu xanh lục do kết cấu đảo đá vôi và phiến thạch.

Vân Đồn có lịch sử từ thời vua Lý Anh Tông (1149), lập phố xá, cho thuyền buôn các nước qua lại. Trong các thời kỳ sau, Vân Đồn trở thành một thương cảng cổ, tập trung ở đảo Cái Bàn, Quan Lạn… Hiện nay, quần đảo Vân Đồn nằm cách Hạ Long 50 km về phía đông nam, gồm trên 600 đảo lớn nhỏ, có nhiều đảo lớn như Ba Mùn, Cái Bàn (Trà Bản), Phượng Hoàng, Ngọc Vừng…

Cửa Lục ngày nay là cửa ra vào vịnh Cửa Lục, nằm giữa Bãi Cháy và núi Bài Thơ. Vịnh Cửa Lục có sáu nhánh sông đổ vào, nhưng không có nhánh nào thông trực tiếp với sông Bạch Đằng.

Mũi Ngọc là mũi đất ở địa đầu Trà Cổ – Móng Cái.

Vịnh Hạ Long nằm ở đông bắc Việt Nam, là một phần của vịnh Bắc Bộ, kéo dài tới Hải Phòng, Cẩm Phả, một phần huyện đảo Vân Đồn, phía tây nam giáp Cát Bà, tổng diện tích 1.553 km² với 1.969 hòn đảo. Đáy các eo biển ở đây không nơi nào sâu quá 20 m, chủ yếu là cát, đất sét, bùn và xác thực vật.

Quỳnh Châu là một châu của đảo Hải Nam, Trung Quốc.

Tạo hình binh lính Mông Cổ trên phim truyền hình
Tạo hình binh lính Mông Cổ trên phim truyền hình

Kế hoạch tấn công Đại Việt của Hốt Tất Liệt

Ngày 13 tháng 2 năm 1287, Hốt Tất Liệt lập “Chinh Giao Chỉ Hành Thượng Thư Tỉnh”, cắt cử Thoát Hoan làm tổng chỉ huy, chia ba hướng:

  1. Vân Nam – Lào Cai – Yên Bái – Việt Trì (A Ruc chỉ huy).
  2. Tư Minh – Lộc Bình – Lạng Sơn – Vạn Kiếp (Thoát Hoan, Trịnh Bằng Phi chỉ huy).
  3. Khâm Châu – Móng Cái – Mũi Ngọc – Biển Lục Thủy – Bạch Đằng – Vạn Kiếp (Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy) với 620 thuyền tham chiến.
    Trương Văn Hổ, Phi Củng Thìn, Đào Đại Minh phụ trách 70 thuyền vận tải lương, đi theo Ô Mã Nhi.

Sau 8 tháng chuẩn bị, ngày 11-10-1287, quân Mông Cổ xuất phát từ Hồ Bắc. Ngày 18-12-1287, Thoát Hoan đến Tư Minh, ngày 25-12-1287 vượt biên giới đánh vào nước ta, ngày 29-12-1287 đến Lạng Sơn, và ngày 2-1-1288 đã có mặt tại Vạn Kiếp. Như vậy, chỉ 8 ngày sau khi vượt biên, quân Nguyên đã tới gần sát Thăng Long.

Ô Mã Nhi khởi hành từ Khâm Châu ngày 17-12-1287, ngày 2-1-1288 đã đến Vạn Kiếp hội quân với Thoát Hoan. Thủy trình kéo dài gần nửa tháng.

Nhiệm vụ của Trương Văn Hổ

Trương Văn Hổ có nhiệm vụ tải lương cho đoàn quân viễn chinh Mông Cổ. Thoát Hoan còn dự trữ thêm một kho ở Tư Minh dưới quyền Vạn Hộ Hạ Chỉ và Trương Ngọc. Tuy nhiên, thời gian Trương Văn Hổ rời Khâm Châu chưa được xác định rõ trong các tư liệu. Người ta chỉ biết rằng khi Ô Mã Nhi đến Vạn Kiếp mà vẫn chưa thấy Trương Văn Hổ, Thoát Hoan buộc phải cắt Ô Mã Nhi ra biển tìm thuyền lương. Vì không nhận được lương, quân Mông Cổ thiếu thốn, rơi vào thế khốn quẫn.

Dựa trên ước đoán thời gian, có thể Trương Văn Hổ rời Khâm Châu khoảng cuối tháng 12-1287, di chuyển chậm hơn nên đã bị Trần Khánh Dư đánh úp. Chỉ khoảng hai, ba ngày “khất tội” mà Khánh Dư xin với trung sứ cũng đủ để dàn trận, rình bắt đoàn thuyền lương này.

Tương quan lực lượng: Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp sở hữu hơn 600 chiến thuyền mạnh, trong khi Trần Khánh Dư chỉ cần đủ lực lượng để diệt 70 thuyền lương chở nặng, di chuyển khó khăn. Cuộc đối đầu đầu tiên, Khánh Dư thua, nhưng cũng là “cái bẫy” để Trương Văn Hổ mất cảnh giác và sa vào ổ phục kích.

– “Tại sao chỉ hai, ba ngày thôi? Có phải Khánh Dư biết chắc mình sẽ hạ độc thủ kẻ thù ở vị trí tọa độ nào chăng?”
Câu trả lời nằm ở việc Khánh Dư quá hiểu địa hình, con nước vùng Vân Đồn, vịnh Hạ Long, Bạch Đằng. Nơi thuyền lương buộc phải đi qua chính là “thiên la địa võng” mà ông đã dọn sẵn.

Hải trình của Ô Mã Nhi

Thời gian nào Trương Văn Hổ rời Khâm Châu và phải chuyển lương thực đến Vạn Kiếp chậm nhất là ngày nào?

Trong nhiều tư liệu tham khảo không ghi chính xác ngày Trương Văn Hổ rời Khâm Châu và ngày diễn ra trận Trần Khánh Dư tập kích. Tuy nhiên, căn cứ thời gian của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp (ĐVSKTT, KĐVSTGCM, Nguyên Sử) cho thấy Thoát Hoan có mặt ở Vạn Kiếp ngày 2-1-1288, còn Ô Mã Nhi khởi hành từ Khâm Châu ngày 17-12-1287.

Tóm tắt:

  • 17-12-1287: Ô Mã Nhi rời Khâm Châu.
  • 20-12-1287: Vào hải phận Đại Việt (từ vùng Vân Đồn tới đảo Cát Bà).
  • 2-1-1288: Hội quân ở Vạn Kiếp.

Ô Mã Nhi mất chừng 12 ngày vượt biển, đến Vạn Kiếp. Còn Trương Văn Hổ chậm trễ, gặp Khánh Dư mai phục. Sự vắng mặt của thuyền lương khiến Thoát Hoan lúng túng, phải chia quân đi tìm kiếm. Khánh Dư lợi dụng khoảng trống này để hành động.

Ai là người cố vấn cho Ô Mã Nhi, Trương Văn Hổ vạch ra hải trình?
Ở Vân Đồn và các đảo Cát Bà, Cô Tô… có nhiều thương thuyền, cư dân gốc Trung Quốc, Java, Thái Lan… sinh sống, họ biết rõ luồng lạch, thủy triều, địa hình hiểm trở. Có lẽ những người này đã giúp quân Nguyên lựa chọn con đường phù hợp. Tuy nhiên, vịnh Cửa Lục không thông với sông Bạch Đằng, trong khi mục tiêu của Trương Văn Hổ là đến Vạn Kiếp. Vì vậy, theo nhận định của nhiều sử gia, biển Lục Thủy (chứ không hẳn là Cửa Lục) mới chính là nơi diễn ra trận hải chiến quyết định, phù hợp với bối cảnh “lương thực chìm xuống biển,” “thuyền mắc cạn” như sử ghi.

Dự báo thời tiết ở biển Đông mùa đó thường nhiều gió mùa đông bắc, sóng lớn, dễ gây bão tố khiến đoàn thuyền lương nặng nề càng khó di chuyển. Khánh Dư nắm thời cơ, giành chiến thắng.

Kết lại, Phần Hai cho thấy hải trình của Ô Mã Nhi rất thuận lợi lúc đầu, trong khi Trương Văn Hổ vận chuyển lương thực cồng kềnh, đi sau nên bị Khánh Dư đón lõng. Điều này giải thích vì sao chỉ trong “hai, ba ngày” mà Khánh Dư tự tin có thể “mưu lập công”: ông đã bố trí sẵn, hiểu rõ điểm yếu của thuyền lương giặc, cũng như địa thế vùng biển Lục Thủy – Vân Đồn – Hạ Long.


Trong tương lai, nếu có dự án tìm kiếm kho tàng quân lương, khí giới của quân Nguyên dưới đáy vịnh Hạ Long, rất có thể sẽ giải đáp thêm nhiều nghi vấn lịch sử. Những cổ vật, di chỉ, tàn tích khí giới, chiến thuyền… nếu được tìm thấy, chắc chắn sẽ đóng góp không nhỏ trong việc xác thực những ghi chép từ ĐVSKTT, KĐVSTGCM, Nguyên Sử. Đồng thời, đó cũng là cơ hội để người Việt Nam lẫn các nhà nghiên cứu nước ngoài hiểu sâu sắc hơn về chiến lược, chiến thuật của cả quân Nguyên lẫn triều Trần.

Từ “chuyến du lịch dã ngoại” của một nhóm 10 thành viên, nếu ý tưởng được tiến hành chuyên nghiệp, biết đâu kho tàng văn hóa – lịch sử của chúng ta sẽ có thêm những phát hiện chấn động. Như người đàn ông kia nói, lợi ích tinh thần sẽ thuộc về những ai dành tâm huyết và thời gian thực hiện dự án này. Và hơn hết, đó chính là “sự đồng cảm của hiện tại về quá khứ,” nối liền sợi dây giữa hôm nay với những con người đã ngã xuống, những trận đánh vang danh sử sách bảy thế kỷ trước.

“Tại sao chỉ hai, ba ngày thôi? Có phải Trần Khánh Dư biết chắc toạ độ mình sẽ hạ độc thủ kẻ thù? Vị trí đó nằm ở đâu? Có phải ở Cửa Lục hay chỗ khác trên Lục Thủy Dương?”

Những câu hỏi ấy, cho đến nay, vẫn còn thách thức hậu thế. Và đó cũng là lý do dự án dò tìm dưới lòng vịnh Hạ Long luôn hấp dẫn: vừa hé lộ quá khứ, vừa khơi dậy trí tò mò, vừa tạo nguồn cảm hứng để các nhà sử học, khảo cổ, nghiên cứu biển… cùng phối hợp, để lịch sử được soi sáng thêm một bước, và để mỗi người chúng ta hiểu rõ hơn về hào khí thời đại nhà Trần.


Bài viết sử dụng các trích dẫn chính từ: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Nguyên Sử, An Nam Chí Lược, Cuộc Kháng Chiến Chống Xâm Lược Nguyên Mông Thế Kỷ XIII (Hà Văn Tấn & Phạm Thị Tâm), Việt Nam Sử Lược (Trần Trọng Kim), Việt Sử Tân Biên (Phạm Văn Sơn), Hạ Long Đá và Nước (Nguyễn Ngọc), cùng một số dữ liệu về địa danh cổ – hiện đại ở Quảng Ninh.

Rate this post

cards
Powered by paypal

Đăng ký theo dõi trang để nhận thông báo bài viết mới hàng tuần

ĐỌC THÊM

Kim Lưu
Chào mọi người, mình là Kim Lưu, người lập Blog Lịch Sử này. Hy vọng blog cung cấp cho các bạn nhiều kiến thức hữu ích và thú vị.