Tác giả bài gốc: Trần Viết Điền
Blog Lịch Sử tổng hợp và biên soạn
Việc bang giao giữa Đại Việt và Đại Thanh vào thời Tây Sơn từng ghi dấu một sự kiện hết sức độc đáo năm Canh Tuất (1790). Chỉ ít lâu sau cuộc chiến đầu năm Kỷ Dậu (1789) với thắng lợi vang dội của Quang Trung, hai bên nhanh chóng giảng hòa; nhân dịp đại lễ bát tuần đại khánh của vua Càn Long, phái đoàn Đại Việt do “vua Quang Trung” dẫn đầu, gồm hơn 150 người, được Thanh triều đón tiếp vô cùng trọng thị. Thế nhưng, cho đến nay vẫn tồn tại nghi án: Người thật sự sang chầu vua Càn Long năm ấy là vua Quang Trung thật hay một “giả vương”? Bài viết này điểm lại các luồng quan điểm, dẫn liệu, đồng thời nêu một kiến giải mới về nhân vật “giả vương nhập cận” từng gây tranh cãi suốt nhiều thế kỷ.
Dưới đây, xin mời quý độc giả cùng tìm hiểu tổng quan vấn đề, đối chiếu nguồn sử liệu, cũng như theo dõi một hướng giải thích mới được đề xuất dựa trên các bằng chứng đã công bố gần đây.
Tổng quan về sự kiện năm Canh Tuất [1790]
Năm 1789, Đại Việt dưới triều Tây Sơn đại phá quân Thanh vào dịp Tết Kỷ Dậu, đánh tan đạo quân hùng hậu do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy. Thừa thắng nhưng Quang Trung (Nguyễn Huệ) vẫn chủ trương giảng hòa, tránh cho đất nước thêm binh đao. Hàng loạt sứ bộ được phái sang nước Thanh để xử lý mối bang giao nhạy cảm sau chiến trận, trong bối cảnh “lửa hận” hừng hực của các tướng lĩnh nhà Thanh vì bại trận.
Sự kiện được nhắc đến nhiều nhất chính là chuyến “nhập cận” của vua Đại Việt sang chúc thọ vua Càn Long nhân đại lễ bát tuần đại khánh năm Canh Tuất (1790). Trong gần một năm, người được Thanh triều gọi là “Nguyễn Quang Bình” đã đi từ biên giới Lạng Sơn đến hành cung Nhiệt Hà, dự yến tiệc, luận đàm chính trị – quân sự với vua tôi Càn Long. Nhiều sử gia khẳng định: nhờ nỗ lực bang giao ấy, Đại Việt tạm hóa giải được nguy cơ tái phát chiến tranh với một kẻ thù vốn vẫn “còn hậm hực” sau thất bại. Tuy nhiên, câu hỏi muôn thuở là: Liệu vị “Nguyễn Quang Bình” trong lễ chúc thọ này có thật sự là vua Quang Trung hay không?
Từ cuối thế kỷ XVIII cho đến ngày nay, rất nhiều nhà nghiên cứu, sử gia, nhà báo đã tham gia giải mã nghi án “giả vương nhập cận.” Bất đồng quan điểm vẫn tồn tại sâu sắc, bởi lẽ hồ sơ thư tịch để lại chưa đủ chi tiết, các tài liệu nhiều khi mâu thuẫn nhau. Không ít người cho rằng vua Quang Trung đích thân sang chầu. Số khác viện dẫn các bản chép tay, truyền khẩu hay chính sử triều Nguyễn để khẳng định: Có một “giả vương” – hoặc thậm chí hai “giả vương” – đã thay vua Quang Trung diện kiến Càn Long.
Trong bối cảnh đó, sử gia, nhà nghiên cứu hiện đại tiếp tục đi tìm những chứng cứ thuyết phục. Từ “Hoàng Lê nhất thống chí,” “Chính biên liệt truyện” triều Nguyễn, đến tài liệu do TS Nguyễn Duy Chính công bố năm 2016…, tất cả cùng soi rọi vào câu hỏi: “Người thật hay giả?”. Sau đây, bài viết sẽ tóm lược lại các nguồn ý kiến đáng chú ý, để thấy toàn cảnh cuộc tranh luận.
Các ý kiến nghiên cứu tiêu biểu
Quan điểm “giả vương nhập cận” do người thân cận Quang Trung hoặc võ quan thay thế
Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái)
Theo “Hoàng Lê nhất thống chí,” soạn bởi các tác giả họ Ngô (Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du…), “giả vương nhập cận” chính là võ quan Nguyễn Quang Trực, quê ở làng Mặc Điền, huyện Nam Đường (Nam Đàn), trấn Nghệ An. Vì các tài liệu họ Ngô cung cấp đều dựa trên những người đã trực tiếp tham gia tổ chức sứ bộ, nên có độ tin cậy nhất định. Cụ thể, ông Ngô Thì Nhậm – người có vai trò rất lớn trong công tác bang giao với Thanh triều – từng bố trí chuyến “giả vương nhập Thanh” năm Canh Tuất (1790). Đến đời sau, cháu của Ngô Thì Nhậm là Ngô Thì Du (tác giả hồi 15 của “Hoàng Lê nhất thống chí”) chép lại sự kiện “giả vương” này với tên “Nguyễn Quang Trực.”
Chính biên liệt truyện triều Nguyễn
Khoảng thời gian 1821–1851, các sử quan triều Nguyễn biên soạn “Chính biên liệt truyện sơ tập,” trong đó ghi rõ: Có đến hai “giả vương,” cùng là người cháu gọi Quang Trung bằng cậu, tên là Phạm Công Trị (tước Trị An hầu). Lần thứ nhất, nhân vật này ra Thăng Long tiếp chiếu Càn Long vào tháng 11 năm Kỷ Dậu (1789) để nhận sắc phong “An Nam quốc vương” thay vua Quang Trung. Lần thứ hai, vẫn người đó được tiếp kiến Càn Long ở Nhiệt Hà vào năm Canh Tuất (1790). Đây là sử liệu “chính thống” triều Nguyễn, nên nhiều nhà nghiên cứu khó bác bỏ hoàn toàn.
Nghi vấn của các học giả hiện đại về “giả vương” mang tên Phạm Công Trị
Dựa trên một đoạn dụ vua Càn Long gửi quần thần, nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Long (trong sách “Đại Việt quốc thư,” 2005) nêu vấn đề: Vua Càn Long từng nhắc đến việc con vua Quang Trung là Nguyễn Quang Thùy tuổi còn nhỏ, dọc đường sang Thanh bị bệnh, phải có Phạm Công Trị và bồi thần Đặng Văn Chân hộ tống về nước. Nếu Phạm Công Trị hộ tống Quang Thùy trở về, vậy liệu ai tiếp tục đóng vai “giả vương nhập cận”?. Sử gia Tạ Chí Đại Trường cũng nêu nghi vấn tương tự trong “Việt Nam thời Tây Sơn” (Nxb Công An Nhân Dân, 2007).
Nhà nghiên cứu Phan Duy Kha (2012)
Trong bài “Bí ẩn sự kiện Quang Trung giả thời Tây Sơn” (blog Phan Duy Kha, 13/11/2012), tác giả tin tưởng vào “Đại Nam chính biên liệt truyện,” cố gắng giải thích theo hướng: Phái đoàn năm 1790 có Phạm Công Trị thật và Phạm Công Trị giả (cùng tên), trong đó người hộ tống Nguyễn Quang Thùy về nước chỉ là “bản sao,” còn “bản chính” vẫn sang chầu Càn Long. Đây là lập luận phức tạp, cho thấy sự thiếu rõ ràng trong ghi chép thời bấy giờ.
Công bố của nhà báo Bùi Ngọc Long (2013) và nghiên cứu của ông Lê Nguyễn Lưu
Theo loạt bài “Theo dấu tích vương triều Tây Sơn” (báo Thanh Niên, 1/3/2013), dựa vào kết quả nghiên cứu trước đó của Lê Nguyễn Lưu, cho biết: Quả có nhân vật Phạm Công Trị, con của Thái úy quận công Phạm Văn Hưng – em bà chánh cung hoàng hậu Phạm Thị Liên. Nghĩa là Phạm Công Trị gọi vua Quang Trung bằng “bác” hay “dượng,” chứ không gọi bằng “cậu” như chính sử. Đồng thời, ông Lê Nguyễn Lưu nhận định: Chuyện có một người khác (tên “Nguyễn Quang Trực”) tiếp chiếu “An Nam quốc vương” ở Thăng Long năm 1789, còn vai diễn triều kiến hoành tráng hơn năm 1790 thì để dành cho kẻ xứng tầm hơn.
Tài liệu gia tộc họ Nguyễn Cửu (2014)
Thông tin “giả vương nhập cận” bất ngờ được làm nóng trở lại khi trên trang giatocnguyencuu.wordpress.com (22/1/2014), ông Nguyễn Cửu Vịnh công bố một đoạn phả hệ “Vân Dương Kinh phổ” của họ Nguyễn Cửu (chữ Hán, biên soạn năm 1850). Trong đó chép rằng: Nội đội Trị An hầu Nguyễn Cửu Trị, con thứ 12 của Hoán quận công, từng được vua Quang Trung sai “cải trang làm giả vương sang triều kiến vua Cao Tông (Càn Long).” Phát hiện này lại đưa nghi vấn “giả vương” về phía một nhân vật hoàn toàn khác: “Nguyễn Cửu Trị,” chứ không phải “Phạm Công Trị.”
Quan điểm “không hề có giả vương,” người sang là Quang Trung thật
Nghiên cứu của TS Nguyễn Duy Chính (2016)
Trong sách “Giở lại một nghi án lịch sử Giả vương nhập cận – có thực người sang Trung Hoa là vua Quang Trung giả hay không” (NXB Văn hóa – Văn nghệ, 2016), TS Nguyễn Duy Chính dựa trên nhiều tư liệu đương thời của cả hai phía, đặc biệt là các văn thư trao đổi của đại thần hai triều, chỉ dụ của Càn Long, biểu tấu của Quang Trung, v.v. Từ đó, ông khẳng định không có chuyện “giả vương,” mà chính vua Quang Trung đích thân sang Bắc Kinh dự lễ bát tuần. Theo ông, những sử liệu “giả vương” là do cựu thần nhà Lê và sử quan triều Nguyễn bịa đặt để hạ uy thế Tây Sơn.
Các phản bác đối với ý kiến của TS Nguyễn Duy Chính
Năm 2016, trong buổi giao lưu về đề tài lịch sử tại Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM, nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn bác bỏ lập luận “không có giả vương,” nhấn mạnh rằng Quang Trung khó lòng rời Phú Xuân gần một năm khi còn “thù trong giặc ngoài” Bắc – Nam. Bên cạnh đó, TS Trần Đức Anh Sơn chia sẻ trên Facebook cá nhân, có rất nhiều ý kiến cho rằng lý giải của TS Nguyễn Duy Chính “không đúng với chính sử Việt Nam” lâu nay.
Những bài viết chắt lọc tiếp cận gia phả, văn bia
Bài “Giả vương nhập cận – một nhân vật khác” (2017)
Hai tác giả Đình Đính và Võ Vinh Quang (Tạp chí Sông Hương, 1/8/2017) dựa trên bản chữ Hán “Vân Dương Kinh phổ” của họ Nguyễn Cửu, xác nhận nội dung chép về nhân vật “Nội đội Trị An hầu” Nguyễn Cửu Trị từng giả làm vua Quang Trung. Tuy nhiên, ai là kẻ thật sự “bảo kiến” Càn Long thì bài viết vẫn chưa thể kết luận dứt khoát.
Như vậy, từ ghi chép trong “Hoàng Lê nhất thống chí,” “Chính biên liệt truyện,” các công bố của nhà nghiên cứu Phan Duy Kha, Bùi Ngọc Long, tài liệu gia phả Nguyễn Cửu, cho đến các chứng cứ của TS Nguyễn Duy Chính… đã tạo nên một bức tranh đa diện. Mấu chốt nằm ở chỗ: Ai thật sự sắm vai “giả vương,” và liệu “giả vương” đó có hiện hữu hay không? Câu trả lời dường như vẫn bỏ ngỏ, kích thích giới nghiên cứu tiếp tục tìm kiếm.
Đọc thêm:
- Trận Thị Nại năm 1801: Võ công của nhà Nguyễn
- Hồng Tập và cuộc nổi dậy chống Tự Đức năm 1864
- Trận Rạch Gầm-Xoài Mút: Chiến công hiển hách của Tây Sơn
- Hồng Bảo – Bi kịch không được truyền ngôi
Kiến giải mới về “giả vương nhập cận”
Dựa trên các dữ kiện rải rác, một số tác giả gần đây đưa ra giả thuyết nhằm dung hòa những ghi chép mâu thuẫn. Về cơ bản, giả thuyết này cho rằng Quang Trung không hề trực tiếp sang Thanh; người “nhập cận” chính là một “giả vương” có sự hoán đổi tinh vi trong hành trình. Giả thuyết này gói gọn trong các luận điểm sau:
1. Vua Quang Trung không thể rời Phú Xuân suốt năm 1790
Sau đại phá quân Thanh, Tây Sơn phải đối mặt với vô vàn thách thức:
- Phía Bắc: Cựu thần nhà Lê chực chờ cơ hội, trong khi triều đình nhà Thanh còn “cay cú” thất bại. Dù đã giảng hòa, nguy cơ “chiến tranh lần nữa” chưa hoàn toàn biến mất.
- Phía Nam: Nguyễn vương Phúc Ánh đang đứng vững ở Gia Định, được sự hỗ trợ của phương Tây, phát triển thủy quân hùng hậu. Cùng lúc, nội bộ Tây Sơn cũng căng thẳng, đặc biệt Quang Trung và vua anh Nguyễn Nhạc từng nhiều lần xung đột.
Giả thuyết cho rằng Quang Trung không thể bỏ mặc kinh đô Phú Xuân “gần một năm trời” để sang dự tiệc mừng thọ, vì những biến cố 1790–1792 ở vùng Quy Nhơn, Gia Định quá cấp bách.
2. Những bức thư của giáo sĩ phương Tây đương thời
Các bức thư do giáo sĩ châu Âu viết năm 1790 (dẫn trong Tập san Sử Địa, số 21, 1971, và số 13, 1969) đề cập việc Quang Trung “đang ở Phú Xuân,” đối phó tình hình lương thực thiếu hụt, quan hệ Công giáo và khả năng đánh nhau giữa anh em Tây Sơn. Cha Ginestar, Cha Le Roy, Cha La Mothe… đều nhắc đến việc “Tiếm Vương vẫn ở Phú Xuân” hoặc “vua Quang Trung chỉ cử con trai ra Bắc.” Thông tin này gián tiếp củng cố phỏng đoán Quang Trung không rời kinh đô trong thời điểm năm Canh Tuất (1790).
3. Vì sao chính sử triều Nguyễn ghi nhận “giả vương” là Phạm Công Trị, nhưng lại có chứng cứ ông này rời sứ bộ giữa đường?
- Tháng 11 năm Kỷ Dậu (1789), “vua Quang Trung” ở Thăng Long tiếp chiếu sách phong “An Nam quốc vương” từ Càn Long, theo “Chính biên liệt truyện,” chính là Phạm Công Trị cải trang.
- Sang đầu năm 1790, đoàn Đại Việt khởi hành sang Thanh, trong danh sách vẫn có Đại đô đốc Trị An hầu Phạm Công Trị và hoàng tử Nguyễn Quang Thùy. Tuy nhiên, khi tới Quảng Tây, Quang Thùy đổ bệnh, phải có Phạm Công Trị hộ tống về nước. Vậy ai tiếp tục nhập cận Càn Long suốt gần một năm ở hành cung Nhiệt Hà?
- Một giả thuyết phổ biến là sẽ có một cuộc “hoán đổi” trước khi vào sâu nội địa Thanh. Ban đầu, để đánh lạc hướng tai mắt kẻ thù, người ta vẫn cho Phạm Công Trị dẫn đầu. Tình báo Bắc Hà (cựu thần nhà Lê) hoặc Gia Định (Nguyễn Phúc Ánh) có lẽ chỉ biết đến tên Phạm Công Trị. Sau đó, ở Quảng Tây, khi Phạm Công Trị “đưa Quang Thùy trở về,” một nhân vật khác sẽ thay thế làm “Quang Trung.”
4. Người “giả vương” thứ hai: Võ quan Nguyễn Quang Trực hay Nội đội trưởng Nguyễn Cửu Trị?
- Nhiều tài liệu cổ, như “Hoàng Lê nhất thống chí,” ghi chép “giả vương” giai đoạn 1790 là võ quan người Nam Đàn, Nghệ An, tên là Nguyễn Quang Trực. Song, gia phả họ Nguyễn Cửu lại cung cấp tên “Nội đội Trị An hầu, Nguyễn Cửu Trị” – con thứ 12 của Hoán quận công, cháu ngoại chúa Nguyễn.
- Giả thiết được nêu: Có thể Nguyễn Quang Trực chỉ là vỏ bọc (tên giả, hoặc tên dùng tạm thời) của Nguyễn Cửu Trị khi ông mai danh ẩn tích chạy từ Quảng Bình ra Nghệ An, nhằm thoát kiếp “thân tộc họ Nguyễn” trước kia. Sau này, thấy ông đủ tài (võ nghệ, lễ nghi, khả năng đối đáp) nên Ngô Thì Nhậm chọn làm người sang Thanh thay nhà vua.
- Năm 2014, tài liệu gia phả “Vân Dương Kinh phổ” xác nhận nhân vật “Trị An hầu Nguyễn Cửu Trị” có tướng mạo cao lớn, khôn khéo, về sau sống ở Thăng Long, trông coi thuế mỏ Tuyên Quang. Từ đó đến nay, “giả vương” mang tên Nguyễn Cửu Trị có thêm độ tin cậy, nhất quán với một số đồn đoán trước kia.
5. Che giấu chân tướng và số phận bí ẩn của “giả vương”
- Với sự nhạy cảm chính trị, “giả vương” khó công khai lai lịch. Thời Tây Sơn, để bảo toàn “bí mật quốc gia,” ông không thể phô trương công trạng. Đến khi nhà Nguyễn diệt Tây Sơn (1802), việc để lộ “đã lập đại công với quân Tây” có thể bị liên lụy.
- Hậu duệ họ Nguyễn Cửu truyền lại, phải đến khoảng năm 1850 (triều Tự Đức), trong quá trình tu chỉnh “Vân Dương Kinh phổ,” một số dòng con cháu mới ghi rõ chi tiết này. Điều đó trùng khớp việc “Hoán quận công Nguyễn Cửu Pháp” (1703–1775) có con thứ 12 là Nguyễn Cửu Trị, độ tuổi trung niên vào năm 1790, phù hợp độ tuổi của Quang Trung khi ấy.
- Có thể sau sứ trình năm 1790, ông lưu lại Thăng Long, rồi được triều Gia Long cho làm chức vụ nhỏ ở Tuyên Quang. Con cháu ông lập nghiệp ở Hà Nội, đến ngày nay vẫn tồn tại một chi phái đông đúc.
Tóm lại, “giả vương nhập cận” nhiều khả năng là một nhân vật thuộc dòng dõi chúa Nguyễn, nhưng vì thời cuộc mà phục vụ Tây Sơn. Nơi này, các dấu vết về “Phạm Công Trị” hay “Nguyễn Quang Trực” đều xuất phát từ toan tính che giấu, thay đổi lai lịch, cộng thêm việc triều Tây Sơn và sau đó triều Nguyễn đều không muốn công khai sự thật. Giả thuyết này đưa ra cách giải thích hợp lý cho nghịch lý “Phạm Công Trị vừa giả vương lại vừa phải hộ tống Quang Thùy về nước,” đồng thời vẫn nối kết được với phần chép trong các gia phả, tài liệu người nước ngoài, cũng như sử sách Việt – Thanh.
Kết luận
Cuộc tranh luận về “giả vương nhập cận” năm 1790 thời Tây Sơn dường như vẫn chưa thể dứt điểm, bởi nguồn sử liệu lúc bấy giờ vừa hạn chế, vừa ẩn chứa nhiều toan tính. Việc có hay không “giả vương,” rốt cuộc là một sự thật hay do cánh sử quan đối lập tạo dựng, vẫn còn bỏ ngỏ. Điều chắc chắn là sự kiện “vua Quang Trung” (dù thật hay giả) đi sứ Thanh triều đã góp phần quan trọng giúp Đại Việt tránh thêm một cuộc xâm lăng từ phương Bắc, giữ hòa hiếu trong tình thế cực kỳ gay go.
Dù ở quan điểm nào, chúng ta cũng không thể phủ nhận đây là một trong những nghi án đặc sắc của lịch sử ngoại giao Việt Nam. Những nghiên cứu công phu từ cả hai phía, các công bố gia phả, văn khắc, thư tịch của nhà truyền giáo phương Tây… tất cả đều cho thấy “bí ẩn giả vương” vẫn còn nhiều chi tiết chờ được soi sáng. Hy vọng tương lai, nếu có thêm tài liệu độc đáo được công bố, giới học giả và độc giả quan tâm sẽ cùng giải mã triệt để hơn câu chuyện ly kỳ này.
Bài viết khép lại với lời nhắc rằng: Dẫu người sang Thanh năm 1790 là vua Quang Trung hay một “giả vương,” thì trong lịch sử bang giao, sự kiện ấy đã thể hiện tầm nhìn ngoại giao khéo léo của nhà Tây Sơn. Cũng chính nhờ sách lược uyển chuyển, Đại Việt mới sớm khôi phục được hòa bình, dồn nội lực cho mục tiêu xây dựng quốc gia.