Giải pháp 2 nhà nước cho xung đột Israel-Hamas?

Bài phân tích tính khả thi của giải pháp 2 nhà nước cho tình hình xung đột tại Israel, và những vấn đề Mỹ phải giải quyết

giai phap hai nha nuoc cho xung dot trung dong

Suốt nhiều năm, ý tưởng về một nhà nước Israel và một nhà nước Palestine cùng tồn tại trong hòa bình và an ninh đã bị chế giễu là ảo tưởng viển vông—hoặc tệ hơn là một ảo tưởng nguy hiểm. Sau nhiều thập kỷ ngoại giao do Mỹ dẫn đầu thất bại trong việc đạt được điều đó, nhiều người cho rằng giấc mơ đã chết; tất cả những gì cần làm là chôn vùi nó. Nhưng hóa ra cái chết của giải pháp hai nhà nước đã bị thổi phồng quá mức.

Sau cuộc tấn công kinh hoàng của Hamas vào Israel ngày 7/10 và cuộc chiến tranh thảm khốc mà Israel đã tiến hành tại Dải Gaza kể từ đó, giải pháp hai nhà nước tưởng như đã chết bỗng sống lại. Tổng thống Mỹ Joe Biden cùng giới chức an ninh hàng đầu liên tục khẳng định, cả công khai lẫn riêng tư, về niềm tin rằng đó là cách duy nhất để tạo ra hòa bình lâu dài giữa Israel, Palestine và thế giới Ả Rập. Không chỉ riêng nước Mỹ, lời kêu gọi quay lại giải pháp hai nhà nước còn được tiếp nối bởi các nhà lãnh đạo khắp thế giới Ả Rập, EU, các quốc gia như Úc và Canada, và thậm chí cả đối thủ chính của Washington, Trung Quốc.

Lý do khiến giải pháp này được bàn tới nhiều đến vậy cũng dễ hiểu thôi. Suy cho cùng, các giải pháp thay thế cho việc thành lập hai nhà nước riêng biệt cũng chỉ có vài lựa chọn. Có giải pháp của Hamas, đó là hủy diệt Israel. Có giải pháp từ phía cực hữu Israel, đó chính là sáp nhập Bờ Tây, giải tán Chính quyền Palestine (PA), và trục xuất người Palestine sang các quốc gia khác. Rồi còn cách tiếp cận “quản lý xung đột” do Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu áp dụng trong một thập kỷ qua –  giữ nguyên hiện trạng vô thời hạn, và cả thế giới đã thấy kết quả rồi đấy. Ngoài ra còn có ý tưởng về một nhà nước lưỡng quốc, trong đó người Do Thái sẽ trở thành thiểu số, chấm dứt vị thế của Israel với tư cách là một quốc gia Do Thái. Không có giải pháp nào trong số này giải quyết được cuộc xung đột—ít nhất là không thể tránh khỏi những thảm họa thậm chí còn lớn hơn. Và vì vậy, nếu để giải quyết xung đột một cách hòa bình, giải pháp hai nhà nước là ý tưởng duy nhất còn khả thi.

Những điều đó đều đã đúng từ trước ngày 7 tháng 10. Nhưng hiện thực là cả hai phía đều thiếu đi các nhà lãnh đạo có tầm, thiếu lòng tin và sự thiện chí —cùng hàng loạt nỗ lực thất bại của người Mỹ trong việc thay đổi hiện trạng—khiến người ta không thể hình dung ra một con đường đáng tin cậy để hướng tới giải pháp hai nhà nước. Mà bây giờ để làm điều đó còn khó khăn hơn nhiều. Người Israel và người Palestine đang giận dữ và sợ hãi hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ khi cuộc nổi dậy (intifada) lần thứ hai bùng nổ vào tháng 10 năm 2000; hai bên dường như không có khả năng đạt được niềm tin lẫn nhau – điều rất cần thiết cho giải pháp hai nhà nước. Trong khi đó, với một kỷ nguyên cạnh tranh giữa các nước lớn và bầu không khí chính trị cực kỳ căng thẳng ở Mỹ, sau hàng thập kỷ can thiệp ngoại giao lẫn quân sự thất bại ở Trung Đông, Washington giờ đây có ít ảnh hưởng và uy tín hơn rất nhiều so với những năm 1990, thời điểm sau khi Liên Xô sụp đổ và Mỹ dẫn đầu liên quân đuổi quân đội độc tài Iraq Saddam Hussein ra khỏi Kuwait.

Ngày ấy, nước Mỹ đã khởi động quá trình cuối cùng dẫn đến Hiệp định Oslo. Thế nhưng, hậu quả của cuộc chiến ở Gaza đã đẩy Hoa Kỳ vào nhu cầu cấp thiết hơn trong việc thúc đẩy một tiến trình đáng tin cậy để có thể đi đến một hiệp định, đồng thời cũng tạo ra đòn bẩy mạnh mẽ hơn để biến viễn cảnh giải pháp hai nhà nước từ một ý tưởng suông thành hiện thực. Tuy nhiên, để làm được điều đó sẽ đòi hỏi một cam kết đáng kể về cả thời gian và nguồn lực chính trị. Biden sẽ phải đóng một vai trò chủ động trong việc định hình các quyết định của một đồng minh Israel miễn cưỡng, một đối tác Palestine yếu kém, và một cộng đồng quốc tế đang mất kiên nhẫn. Đồng thời, vì những gì ông ấy thúc đẩy chỉ là một cách tiếp cận tăng dần từng bước để đạt được hòa bình sau một khoảng thời gian dài, giải pháp hai nhà nước cần được ghi nhận từ bây giờ như mục tiêu cuối cùng trong một nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc do Mỹ bảo trợ.

Con đường cam go

Khái niệm giải pháp hai nhà nước đã có từ ít nhất là năm 1937, khi một ủy ban của Anh đề xuất chia vùng lãnh thổ uỷ trị của Anh, khi đó được gọi là Palestine, thành hai quốc gia. Mười năm sau, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết 181, đề xuất hai nhà nước cho hai dân tộc: một nhà nước Ả Rập và một nhà nước Do Thái. Mặc dù ranh giới phân vùng lãnh thổ do nghị quyết đề xuất không làm hài lòng cả hai bên, người Do Thái đã chấp nhận nó – nhưng người Palestine, được các quốc gia Ả Rập bảo trợ khuyến khích, đã từ chối. Cuộc chiến tranh sau đó đã dẫn đến việc thành lập nhà nước Israel; hàng triệu người Palestine trở thành người tị nạn, và nguyện vọng quốc gia của họ ngày càng lụi tàn.

Ý tưởng về một nhà nước Palestine hầu như không được nghĩ đến trong nhiều thập kỷ khi Israel và các nước láng giềng Ả Rập của họ bận tâm với cuộc xung đột của chính họ. Một kết quả của tình hình này là việc Israel chiếm đóng và xây dựng khu định cư ở Gaza và Bờ Tây sau Chiến tranh Sáu ngày năm 1967. Hàng triệu người Palestine bị đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Israel nhưng không được hưởng các quyền giống công dân Israel. Tuy nhiên, các cuộc tấn công khủng bố do Tổ chức Giải phóng Palestine phát động và một cuộc nổi dậy của người Palestine chống lại sự chiếm đóng của Israel vào những năm 1980 đã buộc Israel phải chấp nhận thực tế rằng tình hình đã trở nên không thể cứu vãn. Năm 1993, Israel và PLO đã ký hiệp định Oslo do Mỹ làm trung gian, công nhận lẫn nhau và đặt nền tảng cho một tiến trình từng bước nhằm hướng tới việc thành lập một nhà nước Palestine độc lập. Dường như khoảnh khắc của giải pháp hai nhà nước đã đến.

Đến cuối nhiệm kỳ của chính quyền Clinton, tiến trình Oslo đã tạo ra một dàn ý chi tiết về giải pháp hai nhà nước: một nhà nước Palestine trên 97% Bờ Tây và toàn bộ Gaza, cùng việc trao đổi lãnh thổ được cả hai bên đồng ý nhằm bù đắp phần 3% đất Bờ Tây mà Israel sẽ sáp nhập (lúc đó chiếm khoảng 80% khu định cư của người Do Thái trên đất Palestine). Palestine sẽ có thủ đô ở Đông Jerusalem, nơi các vùng ngoại ô có đông người Ả Rập sẽ thuộc chủ quyền Palestine, còn các khu ngoại ô đông người Do Thái hơn sẽ thuộc Israel. Hai quốc gia sẽ cùng kiểm soát khu vực gọi là Holy Basin của Jerusalem, nơi có các thánh địa quan trọng nhất của ba tôn giáo khởi nguồn từ Abraham.

Nhưng thỏa thuận cuối cùng dựa trên các điều khoản ấy không bao giờ thành hiện thực. Là một thành viên trong đội đàm phán của chính quyền Clinton, tôi nhận ra chả có bên nào sẵn sàng nhượng bộ về vấn đề nhạy cảm như việc ai sẽ kiểm soát Jerusalem, hay cái gọi là “quyền hồi hương” của người tị nạn Palestine, vốn cực kỳ đe dọa đối với người Israel. Cuối cùng, cái công trình hòa bình mà bao người đã đổ bao tâm sức lại chìm trong bạo lực khi người Palestine phát động một cuộc nổi dậy mới, khốc liệt hơn và người Israel thì mở rộng chiếm đóng Bờ Tây. Cuộc xung đột kéo dài 5 năm, cướp đi hàng nghìn mạng sống từ hai phía và phá hủy mọi hy vọng hòa giải.

Mỗi vị tổng thống Mỹ sau đó đều muốn hồi sinh giải pháp hai nhà nước, nhưng chẳng có sáng kiến nào của họ đủ sức vượt qua nỗi ngờ vực do cái đợt người Palestine trở lại bạo lực và quyết tâm sáp nhập Bờ Tây của mấy người định cư Israel. Israel chán nản trước việc lãnh đạo Palestine cứ không chịu đáp lại những đề nghị mà họ coi là hào phóng, phía người Palestine lại không bao giờ tin mấy đề nghị đó là thật lòng hay rằng Israel sẽ thực hiện chúng nếu Palestine dám thỏa hiệp. Lãnh đạo hai bên thích đổ lỗi cho nhau hơn là tìm cách đưa người dân của họ thoát khỏi vũng lầy khốn khổ mà tiến trình hòa bình thất bại đã tạo ra.

Nhà nước bị từ chối

Đến năm 2021 khi Biden trở thành tổng thống Mỹ, thế giới đã từ bỏ giải pháp hai nhà nước [cho cuộc xung đột Israel – Palestine]. Sau 15 năm thống trị chính trường Israel, Netanyahu đã thuyết phục người dân nước mình rằng họ không có đối tác Palestine nào đủ tin cậy để cùng xây dựng hòa bình, và do đó không cần giải quyết vấn đề về 3 triệu người Palestine ở Bờ Tây và 2 triệu người nữa ở Gaza – những vùng lãnh thổ về cơ bản do họ kiểm soát. Thay vào đó, Netanyahu tìm cách “quản lý” cuộc xung đột bằng việc triệt hạ PA (đáng lẽ là đối tác của Israel trong tiến trình hòa bình) và tạo điều kiện cho Hamas củng cố quyền lực ở Gaza, bởi tổ chức này cũng chống lại giải pháp hai nhà nước như ông ta. Song song đó, Netanyahu thả lỏng cho phong trào định cư ở Bờ Tây, khiến việc hình thành một Nhà nước Palestine liền mạch, có lãnh thổ trở nên bất khả thi.

Người Palestine cũng mất niềm tin vào giải pháp hai nhà nước. Một số quay trở lại đấu tranh vũ trang, trong khi số khác bắt đầu hướng tới ý tưởng về một nhà nước lưỡng dân – nơi người Palestine sẽ được hưởng các quyền bình đẳng với người Do Thái. Phiên bản “giải pháp một nhà nước” của Hamas, trong đó Israel sẽ bị xóa sổ hoàn toàn, cũng thu hút nhiều người hơn ở Bờ Tây khi tổ chức này ngày càng nổi tiếng, qua mặt bộ máy lãnh đạo già nua và tham nhũng của Mahmoud Abbas, chủ tịch PA.

Trong nhiều năm, các nhà ngoại giao Mỹ đã cảnh báo rằng tình trạng hiện tại này không thể kéo dài và người Palestine sẽ sớm nổi dậy một lần nữa. Nhưng hóa ra, người Palestine không còn muốn một cuộc intifada nào khác, họ muốn bám trụ trên đất của mình hết mức có thể và chờ đợi. Điều này lại khá hợp ý chính quyền Biden. Họ quyết tâm giảm mức độ ưu tiên dành cho Trung Đông để tập trung vào những thách thức chiến lược cấp bách hơn ở châu Á và châu Âu. Cái họ muốn ở Trung Đông chỉ là sự yên ổn. Vì vậy, bất cứ khi nào xung đột Israel-Palestine có nguy cơ bùng phát, đặc biệt là do các hoạt động khiêu khích của dân định cư, các nhà ngoại giao Mỹ sẽ can thiệp để giảm căng thẳng, với sự hỗ trợ của Ai Cập và Jordan – hai quốc gia cũng muốn tránh một vụ nổ lớn.

Về phần mình, Biden chỉ nói suông về giải pháp hai nhà nước chứ dường như không thực sự tin vào nó. Ông ấy giữ nguyên các chính sách thiên vị người định cư do người tiền nhiệm Donald Trump đưa ra, chẳng hạn như việc dán nhãn “Sản xuất tại Israel” cho các sản phẩm từ các khu định cư ở Bờ Tây. Biden cũng chưa thực hiện lời hứa tranh cử là mở lại lãnh sự quán Mỹ cho người Palestine ở Jerusalem (Trump đã sáp nhập lãnh sự quán này vào đại sứ quán Mỹ khi ông dời đại sứ quán đến Jerusalem).

Trong khi đó, các quốc gia Ả Rập đã quyết định gần như từ bỏ mục tiêu đấu tranh cho Palestine. Họ bắt đầu nhìn nhận Israel như một đồng minh tự nhiên để chống lại “trục kháng chiến” do Iran dẫn đầu, vốn đã bén rễ khắp thế giới Ả Rập. Cách tính toán chiến lược mới này được thể hiện rõ trong Hiệp định Abraham, do chính quyền Trump đàm phán. Theo đó, Bahrain, Morocco và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) đều bình thường hóa hoàn toàn quan hệ với Israel mà không cần Israel thực hiện bất cứ điều gì để thúc đẩy khả năng thành lập một nhà nước Palestine.

Biden có ý định mở rộng khối liên kết Israel – Ả Rập Sunni này bằng cách thúc đẩy quan hệ bình thường hóa giữa Israel với Ả Rập Saudi, nhà sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới kiêm người bảo vệ những thánh địa quan trọng bậc nhất của đạo Hồi. Từ góc nhìn của Hoa Kỳ, bình thường hóa quan hệ mang tính chiến lược rất hợp lý: Israel và Ả Rập Saudi có thể trở thành trụ cột giúp Hoa Kỳ thực hiện phương châm “cân bằng từ xa” nhằm ổn định khu vực, đồng thời giúp họ tập trung nguồn lực để đối phó với một Trung Quốc hùng hổ và một nước Nga hiếu chiến.

Biden đã tìm thấy một đối tác tiềm năng nơi Thái tử Mohammed bin Salman của Ả Rập Saudi, hay thường được biết đến với biệt danh MBS, người đang thực hiện một chiến dịch đầy tham vọng nhằm hiện đại hóa đất nước và đa dạng hóa nền kinh tế. Lo ngại rằng mình không thể bảo vệ thành quả từ nỗ lực đầu tư đó với tiềm lực quân sự hạn chế của Ả Rập Saudi, thái tử tìm kiếm một hiệp ước phòng thủ chính thức với Hoa Kỳ, cũng như quyền duy trì chu trình nhiên liệu hạt nhân độc lập và mua vũ khí tiên tiến của Mỹ. MBS dùng viễn cảnh bình thường hóa quan hệ với Israel để khiến một thỏa thuận như vậy dễ được Thượng viện Hoa Kỳ giàu thành viên ủng hộ Israel chấp nhận. Bản thân MBS chẳng quan tâm mấy đến người Palestine và không sẵn sàng đưa ra điều kiện tiến triển cho giải pháp hai nhà nước để đổi lấy thỏa thuận của mình.

Tuy nhiên, chính quyền Biden lo ngại rằng phớt lờ người Palestine hoàn toàn có thể dẫn đến một cuộc nổi dậy, đặc biệt là vì vào năm 2022, Netanyahu đã thành lập một chính phủ liên minh với các đảng cực đoan theo chủ nghĩa siêu dân tộc và tôn giáo, những kẻ có ý định sáp nhập Bờ Tây và lật đổ chính quyền PA (Palestine). Chính quyền Biden còn đánh giá rằng họ không thể có được số phiếu cần thiết từ đảng Dân chủ tại Thượng viện để thông qua hiệp ước phòng thủ với chế độ Saudi vốn chẳng được ưa thích, trừ khi thỏa thuận có cả những điều khoản quan trọng về vấn đề Palestine. Ả Rập Saudi cần một cái cớ chính trị cho thỏa thuận của họ với Israel, nên đành chấp thuận đề xuất của Biden về việc kiềm chế đáng kể hoạt động định cư tại Bờ Tây, chuyển giao thêm lãnh thổ Bờ Tây cho Palestine quản lý và nối lại viện trợ của Saudi cho chính quyền PA.

Đến đầu tháng 10 năm 2023, Israel, Ả Rập Saudi và Hoa Kỳ đang tiến đến sát bờ vực của một sự thay đổi cục diện trong khu vực. Netanyahu vẫn chưa chấp nhận phần liên quan đến Palestine trong thỏa thuận, và sự phản đối từ liên minh của ông ta đối với bất kỳ nhượng bộ định cư nào khiến nhiều người nghi ngờ thỏa thuận có thể được thực hiện hay không. Sự lưỡng lự thường thấy của MBS cũng gây ra vấn đề. Dẫu vậy, nếu đột phá xảy ra, người Palestine có lẽ lại bị gạt sang một bên thêm lần nữa, còn chính phủ cực hữu của Netanyahu sẽ càng tự tin theo đuổi chiến lược thôn tính của mình. Nhưng rồi… tất cả sụp đổ!*

Kế hoạch cuối liệu có trụ vững?

Thoạt nhìn, có vẻ khó hiểu tại sao những diễn biến sau đó lại có thể giúp hồi sinh giải pháp hai nhà nước. Thật khó có thể diễn tả bằng lời nỗi đau mà mọi người Israel đã phải hứng chịu vào ngày 7 tháng 10: sự thất bại toàn diện của quân đội và lực lượng tình báo được tung hô của Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) trong việc bảo vệ công dân; những hành động tàn bạo khủng khiếp của các chiến binh Hamas khiến khoảng 1.200 người Israel thiệt mạng và gần 250 người bị giam cầm ở Gaza; cuộc khủng hoảng con tin dai dẳng khiến mọi gia đình Israel chìm trong đau buồn và lo lắng; sự di dời các cộng đồng biên giới ở miền nam và miền bắc Israel. Trong bối cảnh này, cũng không có gì ngạc nhiên khi người dân Israel thuộc mọi thành phần gần như không muốn nghĩ đến việc hòa giải với hàng xóm Palestine. Trước ngày 7 tháng 10, phần lớn người Israel đã tin rằng họ không thể có đối tác hòa bình phía Palestine; hôm nay, họ hoàn toàn có lý do để tin rằng mình đã đúng. Cách mà mức độ phổ biến của Hamas gia tăng ở Bờ Tây kể từ khi cuộc chiến bắt đầu chỉ càng củng cố đánh giá này. Theo các cuộc thăm dò ý kiến được thực hiện vào tháng 11 và tháng 12 bởi nhà nghiên cứu người Palestine Khalil Shikaki, 75% người Palestine ở Bờ Tây ủng hộ việc Hamas tiếp tục nắm quyền ở Gaza, so với 38% người dân Gaza. Người Israel cho rằng việc người Palestine – bao gồm cả ông Abbas – từ chối lên án tội ác của Hamas, việc nhiều người Ả Rập hoàn toàn phủ nhận bất kỳ điều gì tương tự đã xảy ra, và làn sóng bài Do Thái mới trong sự ủng hộ quốc tế cho chính nghĩa của người Palestine đều dẫn đến kết luận rằng người Palestine muốn giết họ, chứ không phải làm hòa với họ.

Hầu hết người Palestine cũng dễ hiểu đi đến kết luận tương tự về phía Israel: cuộc tấn công vào Gaza đã khiến hơn 25.000 người Palestine thiệt mạng (trong đó có hơn 5.000 trẻ em), phá hủy hơn 60% nhà cửa trong lãnh thổ và khiến gần như toàn bộ 2,2 triệu người dân phải rời bỏ nhà cửa. Ở Bờ Tây, sự tức giận về cuộc chiến còn trầm trọng hơn bởi bạo lực có hệ thống của những người định cư Israel, những kẻ đã hành hung người Palestine, đuổi một số người khỏi nhà và ngăn cản những người khác thu hoạch ô liu và chăn thả cừu. Ít nhất một số người Palestine, có khả năng là đa số, không bác bỏ ý tưởng về một nhà nước Palestine độc lập như một giải pháp cuối cùng có thể chấm dứt sự chiếm đóng của Israel và cho phép họ sống một cuộc sống có phẩm giá và tự do. (Đáng chú ý, đó vẫn là lập trường chính thức của chính quyền PA, trong khi lập trường chính thức của chính phủ Netanyahu là kiên quyết phản đối việc thành lập một nhà nước Palestine.) Nhưng rất ít người Palestine tin rằng người Israel sẽ cho phép họ xây dựng một nhà nước khả thi thoát khỏi ách chiếm đóng quân sự.

Vì hàng tá lý do này, những lời kêu gọi quốc tế cho giải pháp hai nhà nước ngày càng bị ngó lơ, chả còn ăn nhập với nỗi sợ và khao khát của cả người Israel lẫn Palestine. Nhiều người bảo rằng điều tốt nhất Mỹ có thể làm lúc này là cố gắng chấm dứt chiến tranh càng sớm càng tốt, sau đó tập trung xây lại cuộc sống tan vỡ cho đôi bên, tạm gác chuyện tìm giải pháp dứt điểm sang một bên cho đến khi mọi thứ dịu xuống, lãnh đạo mới xuất hiện, và tình hình thuận lợi hơn cho mấy ý tưởng hòa bình và hòa giải nghe như hão huyền hiện tại.

Nhưng mà đi đường ngắn, ưu tiên mấy cái trước mắt cũng có nguy hiểm riêng: nói cho cùng, đó chính xác là những gì Washington đã làm sau bốn vòng giao tranh giữa Hamas và Israel từ 2008 đến 2021 – rồi xem tình hình giờ ra sao. Hơn nữa, sau vụ này Israel sẽ không dễ dàng rút quân cho Hamas kiểm soát như trước đâu. Netanyahu đã nói thẳng về sự hiện diện an ninh lâu dài của Israel ở Gaza. Đây là công thức cho một thảm họa. Nếu Israel cứ kẹt ở Gaza, họ sẽ chống trả liên miên với lực lượng nổi dậy do Hamas lãnh đạo – y như đúc những gì xảy ra với Hezbollah và các nhóm khác trong 18 năm khi Israel sa lầy ở miền nam Lebanon sau cuộc xâm lược năm 1982.

Không có cách nào đáng tin cậy để thực sự kết thúc chiến tranh ở Gaza mà không tính đến việc thiết lập một trật tự mới, ổn định hơn. Điều đó không thể thực hiện nếu không vạch ra một con đường khả dĩ cho giải pháp hai nhà nước. Các quốc gia Ả Rập Sunni, dẫn đầu bởi Ả Rập Xê Út, coi đây là điều kiện tiên quyết nếu muốn họ hỗ trợ hồi sinh Chính quyền Palestine (PA) và tái thiết Gaza, cộng đồng quốc tế cũng thế. Chính quyền Palestine sẽ cần bám vào mục tiêu đó để chứng minh cho bất kỳ vai trò nào họ đảm nhận trong việc kiểm soát Gaza. Và chính quyền Biden phải đưa được mục tiêu hai nhà nước vào thỏa thuận Israel-Ả Rập Xê Út mà họ vẫn rất muốn dàn xếp.

Bước đầu tiên là Palestine phải thiết lập một chính quyền quản trị có uy tín ở Gaza để lấp đầy khoảng trống Hamas để lại. Đây là cơ hội để Chính quyền Palestine mở rộng tầm ảnh hưởng và thống nhất lãnh thổ chia cắt của mình. Nhưng uy tín đã thấp lại còn bị nhìn như tay chân của Israel để giữ trật tự vì lợi ích an ninh của họ thì không ổn. May mắn thay, Netanyahu phản đối PA kiểm soát Gaza có vẻ phản tác dụng khi vô tình khiến ý tưởng này chính đáng hơn trong mắt người Palestine.

Khi quá trình tái thiết bắt đầu, có lẽ sẽ mất khoảng một năm để đào tạo và triển khai lực lượng an ninh và cán bộ dân sự của Chính quyền Palestine vào Gaza. Trong thời gian này, Israel vẫn có khả năng thực hiện một số hoạt động quân sự chống lại các nhóm tàn dư của Hamas. Trong khi đó, cần có một cơ quan quản lý lâm thời để điều hành lãnh thổ. Thực thể đó cần được hợp pháp hóa bởi một nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và sẽ giám sát quá trình Chính quyền Palestine dần đảm nhận trách nhiệm. Cơ quan sẽ kiểm soát một lực lượng gìn giữ hòa bình với nhiệm vụ duy trì trật tự. Để tránh xung đột với Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF), lực lượng này cần do một vị tướng Mỹ dẫn đầu. Tuy nhiên, sẽ không cần lính Mỹ trực tiếp tham chiến: quân đội có thể đến từ các quốc gia thân thiện với Israel, những nơi có nhiều kinh nghiệm trong các hoạt động gìn giữ hòa bình và được người Palestine chấp nhận, bao gồm Úc, Canada, Ấn Độ và Hàn Quốc. Các quốc gia Ả Rập Sunni cũng nên được mời tham gia vào lực lượng này, mặc dù họ sẽ khó có thể muốn nhận trách nhiệm kiểm soát người Palestine.

Nhưng ngay cả khi không đóng góp quân đội, các quốc gia Ả Rập Sunni vẫn có một vai trò quan trọng. Ai Cập cần đảm bảo sự ổn định cho hàng triệu người dân Gaza rời khỏi biên giới Ai Cập, nơi họ liên tục đe dọa tràn vào đất nước này. Tình báo Ai Cập có hiểu biết sâu rộng về Gaza, và quân đội Ai Cập có thể giúp ngăn chặn việc buôn lậu vũ khí vào Gaza từ Bán đảo Sinai – mặc dù họ đã thất bại khi làm việc đó trước ngày 7 tháng 10. Jordan có ảnh hưởng ở Gaza ít hơn Ai Cập, nhưng người Jordan đã huấn luyện lực lượng an ninh Palestine ở Bờ Tây một cách xuất sắc và cũng có thể làm điều tương tự cho các lực lượng PA ở Gaza. Các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh giàu dầu mỏ có nguồn lực cần thiết để tái thiết Gaza và tài trợ cho việc hồi sinh của Chính Quyền Palestine. Tuy nhiên, không ai trong số họ muốn trả tiền cho chuyện này, trừ khi họ có thể nói với người dân của mình rằng làm như vậy sẽ dẫn đến việc chấm dứt sự chiếm đóng của Israel và cuối cùng là sự xuất hiện của một nhà nước Palestine – điều này sẽ ngăn chặn một đợt chiến tranh khác khiến họ lại phải è cổ ra gánh nợ.

Cần có một bằng hữu

Tất nhiên, có hai trở ngại lớn cho một kế hoạch như vậy, và chúng chính là các bên tham chiến chính. Mặc dù quyền kiểm soát phía bắc Gaza hiện đang bị lung lay, Hamas vẫn duy trì các thành trì ngầm ở các thành phố phía nam Khan Younis và Rafah. Tại thời điểm viết bài này, họ vẫn đang giữ khoảng 130 con tin mà họ dự định sử dụng làm quân bài mặc cả; cuộc chiến càng kéo dài, áp lực trong nước buộc Netanyahu phải đồng ý với một lệnh ngừng bắn không chính thức để đổi lấy phần còn lại của các con tin sẽ càng tăng, điều này có thể khiến phần lớn cơ sở hạ tầng và bộ máy kiểm soát của lực lượng Hamas vẫn được giữ nguyên.

Washington có thể cố gắng thuyết phục IDF chuyển sang cách tiếp cận có mục tiêu hơn, nhằm giảm thương vong. Nhưng để bất kỳ trật tự nào sau chiến tranh hình thành, hệ thống chỉ huy và kiểm soát của Hamas phải bị phá vỡ — và kết quả đó khó mà đảm bảo được.

Ở phía bên kia, sự tồn tại của chính phủ liên minh Netanyahu với các đảng cực hữu và tôn giáo cực đoan phụ thuộc vào việc bác bỏ giải pháp hai nhà nước và bất kỳ sự trở lại nào của PA tới Gaza. Mặc dù có nhiều suy đoán ở Israel rằng Netanyahu sẽ sớm bị hạ bệ và các cuộc bầu cử mới sẽ đưa một liên minh trung lập, ôn hòa lên nắm quyền, nhưng kỹ năng sinh tồn chính trị của ông ta là vô song; không nên xem thường ông ta.

Tuy nhiên, Biden vẫn giữ được ảnh hưởng đáng kể đối với Netanyahu. IDF hiện đang phụ thuộc rất nhiều vào việc tiếp tế quân sự từ Hoa Kỳ khi nước này đang cân nhắc việc phải chiến đấu trên hai mặt trận chống lại Hamas ở Gaza và Hezbollah ở miền nam Lebanon. Israel đã sử dụng một lượng lớn thiết bị quân sự trong chiến dịch ở Gaza, và họ đã yêu cầu chính quyền Biden thực hiện gấp hai đợt tiếp tế khẩn cấp bằng cách bỏ qua sự giám sát của quốc hội, điều này khiến một số đảng viên Đảng Dân chủ tại Thượng viện do Biden lãnh đạo (những người ông sẽ cần để ủng hộ một thỏa thuận Israel-Ả Rập Saudi) hết sức không hài lòng.. Ngay cả khi Israel lựa chọn một chiến dịch nhắm mục tiêu cụ thể hơn ở Gaza, họ vẫn sẽ phải bổ sung kho vũ khí của mình và chuẩn bị cho một cuộc chiến cạn kiệt nguồn lực với Hezbollah. Việc trì hoãn tiếp tế là điều mà Biden không muốn làm vì ông không muốn để lộ ra như thể mình đang làm suy yếu an ninh của Israel. Nhưng trong cuộc đối đầu với Netanyahu, Biden có thể trì hoãn một số quyết định bằng cách vướng vào các thủ tục quan liêu hoặc yêu cầu quốc hội xem xét lại. Điều đó có thể khiến IDF gây áp lực buộc Netanyahu phải nhượng bộ, và áp lực cũng có thể đến từ các tướng lĩnh quân đội được tôn vinh trong nội các chiến tranh khẩn cấp của ông ta: các tướng đã nghỉ hưu Benny Gantz và Gadi Eisenkot, những người lãnh đạo đảng đối lập chính, và Yoav Gallant, bộ trưởng quốc phòng.

Here’s a translation of your text into Vietnamese, aiming for a flexible and casual style. I’ve made some adaptations to ensure the translation flows naturally for Vietnamese readers:

Tình thế này đã bắt đầu bộc lộ rõ. Mặc dù phải nỗ lực không ngừng nghỉ, chính quyền Biden đã thành công trong việc thuyết phục Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) thay đổi chiến lược và chiến thuật của mình – hạn chế quy mô các hoạt động chống lại Hamas và kiềm chế không để xảy ra xung đột với Hezbollah. Mỹ cũng thuyết phục Israel cho phép tăng cường viện trợ nhân đạo vào Gaza, bao gồm cả việc mở cảng Ashdod của Israel để tiếp nhận nguồn cung. Thậm chí, Gallant [Bộ trưởng Quốc phòng Israel] còn công khai bày tỏ sự ủng hộ để chính quyền Palestine (PA) đảm nhận một vai trò trong việc quản lý Gaza, trái ngược hẳn với quan điểm của Thủ tướng [Netanyahu].

Nhìn ở một góc độ nào đó, Hoa Kỳ đã trở thành tuyến phòng thủ đầu tiên của Israel.

Về lâu dài, IDF sẽ vẫn phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ quân sự từ Hoa Kỳ để tái thiết lực lượng răn đe của mình, thứ đã bị tổn hại nghiêm trọng vào ngày 7 tháng 10. Sự phụ thuộc mới này được thể hiện rõ nhất qua việc Hoa Kỳ phải triển khai hai nhóm tác chiến tàu sân bay đến phía đông Địa Trung Hải và một tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đến khu vực để ngăn chặn Iran và Hezbollah tham gia vào cuộc chiến ngay từ đầu. Trước ngày 7 tháng 10, riêng năng lực quân sự của Israel đã đủ sức răn đe, và Hoa Kỳ có thể triển khai các lực lượng chủ chốt của mình ở những nơi khác. Nhưng, theo đưa tin của Kênh 12 Israel, vào tháng Giêng, khi các quan chức Mỹ quyết định rút một trong các nhóm tác chiến tàu sân bay, IDF đã yêu cầu họ giữ nó lại.

Sự phụ thuộc nặng nề về chiến thuật và chiến lược vào Hoa Kỳ này là một hiện tượng mới. Từ lâu, Washington đã đóng vai trò là tuyến phòng thủ thứ hai của Israel. Nhưng việc triển khai các nhóm tác chiến tàu sân bay của Mỹ đã báo hiệu rằng theo một số cách, Hoa Kỳ đã trở thành tuyến phòng thủ đầu tiên của Israel. Israel không còn có thể “tự vệ một mình”, như Netanyahu từng thích khoe khoang trước ngày 7 tháng 10. Ông ta có thể cố gắng hết sức để phớt lờ thực tế mới này, nhưng IDF thì không thể.

Trong khi đó, Israel đang phải hứng chịu làn sóng chỉ trích quốc tế khi việc sử dụng vũ lực bừa bãi trong giai đoạn đầu của cuộc chiến (hành động do cơn thịnh nộ hơn là sự tính toán) đã gây ra thương vong lớn cho dân thường. Chỉ riêng Hoa Kỳ bảo vệ Israel, nhiều lần chặn các động thái lên án từ cộng đồng quốc tế và ủng hộ quyền tiếp tục cuộc chiến chống lại Hamas của Israel bất chấp các lời kêu gọi ngừng bắn gần như trên toàn cầu. Điều này cũng phục vụ lợi ích của Mỹ, vì việc tiêu diệt Hamas là điều kiện tiên quyết để thiết lập một trật tự hòa bình hơn ở Gaza. Tuy nhiên, Israel chỉ thiếu một quyền phủ quyết duy nhất của Mỹ là có nguy cơ đối mặt với các nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc dẫn tới các lệnh trừng phạt. Giống như sự lệ thuộc quân sự mới mẻ vào Washington, sự cô lập chính trị này khiến Israel dễ bị Mỹ gây sức ép.

Cho tới giờ, Netanyahu có vẻ kiên quyết chống lại sức ảnh hưởng từ người bạn quốc tế duy nhất của ông ta, thậm chí còn công khai bác bỏ giải pháp hai nhà nước để củng cố liên minh và lấy điểm với phe mình vì dám đối đầu Mỹ. Nhưng Biden có nhiều cách gây áp lực hơn là chỉ trì hoãn tiếp tế quân sự hay úp mở về việc bỏ phiếu trắng trong một nghị quyết của Liên Hợp Quốc chỉ trích Israel. Netanyahu vẫn phải trông cậy vào cộng đồng quốc tế để tài trợ cho việc tái thiết Gaza. Israel không tự bỏ ra được cỡ tầm 50 tỷ đô la để sửa chữa những thiệt hại mà chiến dịch quân sự của họ gây nên. Mà nếu Netanyahu không đi đến một thỏa thuận với Biden về con đường hợp tình hợp lý dẫn đến giải pháp hai nhà nước, thì Israel đành phải tự gánh hậu quả thôi. Các quốc gia Ả Rập giàu dầu mỏ đã nói thẳng là họ không bỏ tiền cho Gaza nếu không có cam kết chắc chắn về một nhà nước Palestine. Cứ để hoang tàn ở Gaza thì kiểu gì Hamas cũng lên nắm quyền trở lại, rồi Israel sẽ phải đối mặt với một chính quyền thất bại ngay sát biên giới đây. Có khi ông ấy chưa nhận ra, nhưng Netanyahu chẳng còn cách nào khác ngoài việc phải thỏa mãn yêu cầu này.

Cuối cùng, Biden có thể tác động đến dư luận Israel bằng cách nói thẳng với dân chúng nước này, kiểu như bỏ qua Netanyahu vậy. Người Israel cực kỳ cảm kích về việc ông ấy luôn sát cánh khi họ trải qua giai đoạn đen tối nhất sau vụ tấn công ngày 7 tháng 10. Chuyến thăm Israel của Biden đã an ủi cả đất nước khi Netanyahu không làm được điều đó. Kể từ lúc đấy, người dân Israel quan sát thấy tổng thống Mỹ luôn đứng ra bảo vệ họ, lo cho việc trao trả con tin, tức tốc hỗ trợ quân trang cho Lực lượng Phòng vệ Israel, và phủ quyết các nghị quyết của Liên Hợp Quốc chỉ trích Israel. Ngược lại, uy tín của Netanyahu với công chúng Israel đã ở đáy từ trước 7 tháng 10 bởi cái chiến dịch thủ lợi chia rẽ mà ông ta tiến hành để giảm bớt quyền lực của ngành tư pháp. Nếu tổ chức bầu cử hôm nay, ông ta thua tan tác. Gần đây mấy cuộc thăm dò cho thấy hơn 70% người Israel muốn ông ấy từ chức. Trong khi đó, hơn 80% chấp thuận cách Mỹ lãnh đạo đối với hậu quả chiến tranh, và chuộng Biden hơn Trump tới 14 điểm – đây là lần đầu tiên trong hàng chục năm qua người Israel thích ứng viên Dân chủ hơn Cộng hòa trong cuộc đua Tổng thống Mỹ đấy.

Chính quyền Biden phải làm gì?

Nếu Biden phải đối đầu với Netanyahu, một bài phát biểu trước người dân Israel có thể giúp tổng thống Mỹ chiếm ưu thế. Thời điểm tốt nhất để thực hiện điều này là sau khi Hoa Kỳ giúp dàn xếp một cuộc trao đổi tù nhân-con tin khác, điều mà công chúng Israel sẽ vô cùng biết ơn. Mục đích không phải để thuyết phục người Israel về giải pháp hai nhà nước, vì họ chưa sẵn sàng đón nhận điều đó. Thay vào đó, ý tưởng sẽ là đưa ra một lời giải thích nhẹ nhàng về những gì Hoa Kỳ đang cố gắng làm để đảm bảo tình hình ổn định ở Gaza, ngăn chặn việc lặp lại những sự kiện căng thẳng trước đó. Ngoài ra, bài phát biểu này sẽ vạch ra một lộ trình theo thời gian hướng tới việc chấm dứt xung đột rộng lớn hơn.

Biden sẽ giải thích rằng ông không muốn thấy Israel yêu quý của mình bị kết án lâm vào một cuộc chiến bất tận, nơi mỗi thế hệ đều phải đưa con em mình ra chiến đấu trên đường phố Gaza và các trại tị nạn ở Bờ Tây. Thay vào đó, ông sẽ đưa ra một giải pháp thay thế mang đến hy vọng về một nền hòa bình lâu dài—miễn là chính phủ Israel tuân theo sự hướng dẫn của ông. Biden cũng sẽ cần phản bác tuyên bố của Netanyahu rằng Israel phải duy trì quyền kiểm soát an ninh toàn diện ở Bờ Tây và Gaza. Tổng thống Mỹ sẽ nhấn mạnh các thỏa thuận an ninh thay thế do Hoa Kỳ giám sát, bao gồm việc phi quân sự hóa nhà nước Palestine. Các phương án này sẽ dung hòa nhu cầu an ninh của Israel với chủ quyền của người Palestine—và giữ cho người Israel an toàn hơn so với tình trạng chiếm đóng quân sự vĩnh viễn.

Khuất phục trước Biden sẽ đi ngược lại mọi bản năng chính trị của Netanyahu. Cách duy nhất mà Netanyahu có thể tin cậy để duy trì quyền lực bây giờ là duy trì liên minh của mình với phe cực đoan, những người phản đối kịch liệt việc hồi sinh chính quyền Palestine và giải pháp hai nhà nước. Nếu nhượng bộ, ông ta có nguy cơ mất quyền lực rất lớn. Thông thường, khi bị dồn vào chân tường, Netanyahu thường sẽ ‘lắt léo’: nhượng bộ một chút trước Hoa Kỳ trong khi trấn an những người cứng rắn của mình rằng những nhượng bộ của ông không nghiêm trọng. Đặc biệt là về vấn đề các khu định cư của Israel, ông ta đã thoát khỏi kế sách đó trong suốt 15 năm.

Nhưng giờ trò chơi đã khác. Netanyahu không thể tin tưởng khi tuyên bố rằng ông ủng hộ giải pháp hai nhà nước. Ông đã từng làm điều đó vào năm 2009, nhưng kể từ đó, mọi chuyện đã trở nên rõ ràng rằng ông đang nói dối, như cách ông ấy hiện đang khoe khoang về việc ngăn chặn sự xuất hiện của một nhà nước Palestine. Kể cả khi Netanyahu duy trì sự phản đối của mình đối với kết quả đó, việc hợp tác với kế hoạch hậu chiến của Hoa Kỳ cho Gaza vẫn sẽ buộc ông phải thực hiện một số hành động cam kết—chẳng hạn như cho phép PA hoạt động ở Gaza và hạn chế hoạt động định cư ở Bờ Tây. Đây sẽ là minh chứng cho một lộ trình hướng tới giải pháp hai nhà nước— từ đó làm ảnh hưởng đến liên minh mong manh của ông và có thể chấm dứt sự nghiệp của ông.

Rõ ràng là ông Biden muốn tránh đối đầu trực tiếp với Netanyahu, nhưng có vẻ như điều đó khó tránh khỏi. Khi tổng thống cân nhắc cách gây chú ý với Netanyahu, ông ấy cần tìm ra cách thay đổi tính toán của Netanyahu – hoặc, nếu Netanyahu tiếp tục chần chừ, thì cần giúp kéo sự ủng hộ của công chúng Israel về phía cách tiếp cận “ngày hôm sau” mà Biden mong muốn.

Ả Rập Xê Út có thể giúp sức rất nhiều cho nỗ lực này. Trước ngày 7 tháng 10, Biden nghĩ rằng ông sắp đạt được một bước đột phá chiến lược về hòa bình giữa Israel và Ả Rập Xê Út. Cơ hội đó vẫn còn, bất chấp chiến tranh ở Gaza. Thái tử MBS sẽ không để kế hoạch đầy tham vọng trị giá cả tỷ đô la của mình bị Hamas chôn vùi. Ông ấy cũng không thích việc cuộc chiến đã tiếp sức cho Iran và các đối tác của họ trong “trục kháng chiến” vốn đe dọa Ả Rập Xê Út chẳng kém gì Israel. Bởi thỏa thuận ông đàm phán với Biden đáp ứng lợi ích sống còn của vương quốc, nên ông vẫn muốn tiến tới khi mọi thứ lắng xuống. Nhưng việc bình thường hóa quan hệ với Israel giờ đây rất không được ưa chuộng ở Ả Rập Xê Út, nơi dư luận, cũng như ở các nước Ả Rập khác, càng trở nên gay gắt hơn với Israel. Cách duy nhất để MBS lèo lái thành công là phải khăng khăng về một điều mà ông ấy vốn thờ ơ trước ngày 7 tháng 10: con đường hướng đến giải pháp hai nhà nước (Palestine và Israel) một cách nghiêm túc.

Biden nên làm rõ sự lựa chọn mà người Israel đang đối mặt. Họ có thể tiếp tục trên con đường chiến tranh không hồi kết với người Palestine, hoặc họ có thể chấp nhận kế hoạch “ngày hôm sau” của Mỹ – và được tưởng thưởng bằng hòa bình với Ả Rập Xê Út cùng các mối quan hệ tốt đẹp hơn với thế giới Ả Rập và Hồi giáo rộng lớn hơn. Netanyahu đã công khai bác bỏ điều khoản này. Nhưng ông ta làm vậy sau khi thỏa thuận được đưa ra trong các cuộc trao đổi riêng. Biden nên thử lại – nhưng lần này, nên truyền tải trực tiếp thỏa thuận tới công chúng Israel theo cách khiến họ chuyển hướng sự chú ý từ vết thương ngày 7 tháng 10.

Rõ ràng là Biden muốn tránh đối đầu với Netanyahu, nhưng có vẻ như là chuyện khó tránh.

Sau Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, Tổng thống Ai Cập Anwar Sadat đã gây ấn tượng với người Israel bằng chuyến thăm bất ngờ tới Jerusalem. MBS khó mà phiêu lưu như vậy, nhưng có thể ông ấy sẽ cùng Biden kêu gọi trực tiếp tới công chúng Israel thông qua một cuộc phỏng vấn với một nhà báo truyền hình Israel được kính trọng. Cùng nhau, Biden và MBS có thể sử dụng lời đề nghị hòa bình của Ả Rập Xê Út để nâng cao thông điệp hy vọng. Họ có thể chỉ ra vai trò của Ả Rập Xê Út và các nước Ả Rập dòng Sunni trong việc thúc đẩy chính quyền Palestine ở Gaza, và giải pháp hai nhà nước, như những cách đảm bảo người Palestine cũng sẽ thực thi phần trách nhiệm của họ. Biden cần bổ sung thêm, bằng những từ ngữ không mang tính đe dọa, rằng một bước đột phá như vậy sẽ đáp ứng lợi ích chiến lược quan trọng của Hoa Kỳ, cũng như mang lại hòa bình với Ả Rập Xê Út cho Israel. Ông ấy cần truyền tải rằng mình nghĩ điều hợp lý là mong đợi Israel hợp tác—và rằng ông ấy sẽ không hiểu nổi nếu chính phủ Israel từ chối.

Biden cũng sẽ gặp một vấn đề không quá nghiêm trọng, nhưng cũng tương tự khi phải thuyết phục phía Palestine và các lãnh đạo Ả Rập. Họ có lý do để nghi ngờ liệu ông ấy có thực sự muốn một nhà nước Palestine độc lập hay không – đặc biệt khi ai cũng biết có khả năng Biden không còn làm tổng thống Mỹ sau năm 2025. Để làm họ tin thì không hề dễ.

Có một số người đề xuất Mỹ nên công nhận nhà nước Palestine ngay bây giờ, còn việc biên giới cứ thương lượng sau. Nhưng một động thái lớn như thế chẳng khác gì bỏ ngựa trước xe: Chính quyền Palestine phải xây dựng hệ thống chính trị minh bạch, có trách nhiệm, và đáng tin cậy trước đã – chứng minh họ xứng đáng là một chính phủ “trong quá trình hình thành” trước khi được công nhận.

Tuy nhiên, vẫn có cách khác để Mỹ và cộng đồng quốc tế cho thấy họ vẫn ủng hộ giải pháp hai nhà nước. Mọi cuộc đàm phán giữa Israel, các nước láng giềng Ả Rập, và Palestine đều dựa trên Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, được thông qua và chấp nhận bởi Israel và Ả Rập sau Chiến tranh Sáu ngày năm 1967 (Năm 1998, cả PLO cũng chấp nhận nghị quyết này làm nền tảng đàm phán dẫn đến Hiệp định Oslo). Thế nhưng, nghị quyết 242 không trực tiếp đề cập đến vấn đề Palestine, ngoại trừ việc nhắc thoáng qua đến nhu cầu giải quyết công bằng vấn đề tị nạn. Nghị quyết không nhắc gì đến các vấn đề cuối cùng sẽ phải đàm phán, dù rõ ràng nói về “việc chiếm đất bằng chiến tranh là không thể chấp nhận” và Israel nên rút quân khỏi các vùng lãnh thổ chiếm đóng năm 1967 (chú ý là không nói “tất cả các vùng lãnh thổ”).

Một nghị quyết mới cập nhật Nghị quyết 242 có thể khẳng định cam kết của Mỹ và cộng đồng quốc tế về giải pháp hai nhà nước đi vào luật pháp quốc tế. Nghị quyết này sẽ dựa trên Nghị quyết 181 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, kêu gọi hai nhà nước cho hai dân tộc, cùng công nhận quốc gia Do thái Israel và quốc gia Ả Rập Palestine. Nó cũng kêu gọi cả hai bên tránh những hành động đơn phương làm ảnh hưởng xấu đến giải pháp hai nhà nước như xây khu định cư, kích động thù địch, và khủng bố. Và nó cũng nên kêu gọi các bên đàm phán trực tiếp “vào thời điểm thích hợp” để giải quyết mọi vấn đề cuối cùng, chấm dứt xung đột và mọi tranh chấp liên quan.

Nếu một nghị quyết như vậy được Mỹ đưa ra, được Ả Rập Saudi và các nước Ả Rập khác tán thành, và được thông qua nhất trí, thì Israel và PLO sẽ khó lòng từ chối, giống như tình hình với Nghị quyết 242 hồi xưa.

Thời giờ đã điểm

Chiến tranh thường không dừng lại cho đến khi cả hai phe đều kiệt sức và tin chắc rằng việc chung sống với kẻ thù còn tốt hơn nỗ lực hủy diệt lẫn nhau. Người Israel và người Palestine vẫn còn xa mới đạt được điều đó. Nhưng có thể, sau khi giao tranh ở Gaza kết thúc và căng thẳng nguội bớt, họ sẽ lại suy nghĩ về cách để tiến tới thỏa thuận chung. Hiện tại, đã có một số tín hiệu lạc quan. Hãy xem xét việc các công dân Ả Rập của Israel từ chối lời kêu gọi nổi dậy của Hamas. Cũng ít xảy ra bạo lực giữa các cộng đồng ở các thành phố hỗn hợp Ả Rập-Do Thái của Israel kể từ ngày 7 tháng 10. Một trong những nhà lãnh đạo nổi bật nhất của cộng đồng Ả Rập-Israel, chính trị gia kiêm thành viên Quốc hội Mansour Abbas, đã lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ mục tiêu chung sống. Ông viết trên The Times of Israel vào cuối tháng 10 rằng: “Tất cả chúng ta, công dân Ả Rập và Do Thái, phải cùng nhau hợp tác để duy trì hòa bình và ổn định. Chúng ta sẽ củng cố mối quan hệ, tăng cường sự thấu hiểu và khoan dung, để vượt qua cuộc khủng hoảng này một cách hòa bình.” Người Palestine ở Bờ Tây và Đông Jerusalem cũng không chọn bạo lực (trái ngược với các vụ khủng bố riêng lẻ), bất chấp sự khiêu khích của những người định cư cực đoan. Khoảng 150.000 người Palestine sống ở Bờ Tây nhưng làm việc ở Israel trước ngày 7 tháng 10 có thể cảm thấy bị sỉ nhục, nhưng họ muốn quay lại công việc hơn là chứng kiến con cái họ đụng độ với binh lính Israel tại các trạm kiểm soát.

Cả người Israel lẫn người Palestine đều chưa sẵn sàng cho những thỏa hiệp sâu sắc cần thiết cho sự chung sống thực sự. Trên thực tế, họ còn ít sẵn lòng hơn so với cuối chính quyền Clinton, khi họ đã thất bại trong việc ký kết thỏa thuận. Nhưng cái giá khổng lồ của việc từ chối thỏa hiệp đã trở nên rõ ràng hơn nhiều trong những tháng gần đây, và sẽ còn rõ ràng hơn nữa trong nhiều năm tới. Theo thời gian, đa số người dân trong cả hai xã hội có thể nhận ra rằng cách duy nhất để đảm bảo tương lai cho con cái họ là tách biệt trong tôn trọng thay vì giao tranh trong thù hận. Nhận thức đó có thể đến nhanh hơn với giới lãnh đạo có trách nhiệm và bản lĩnh ở cả hai phía—nếu họ xuất hiện. Trong lúc đó, quá trình này có thể bắt đầu bằng cam kết quốc tế về một nhà nước Palestine của người Ả Rập sống cạnh một nhà nước Israel của người Do Thái trong hòa bình và an ninh – một lời hứa do Hoa Kỳ nêu rõ, được các nước Ả Rập và cộng đồng quốc tế tán thành, trở nên đáng tin cậy nhờ nỗ lực phối hợp nhằm tạo ra một trật tự ổn định hơn ở Gaza và Bờ Tây. Cuối cùng, các bên tham gia cuộc xung đột và phần còn lại của thế giới có thể sẽ nhận ra rằng hàng thập kỷ hủy diệt, phủ nhận và lừa dối không giết chết giải pháp hai nhà nước— mà chỉ làm cho nó mạnh mẽ hơn.

Dịch từ tạp chí Foreign Affairs – The Strange Resurrection of the Two-State Solution

Rate this post

MỚI NHẤT