Lịch Sử Việt Nam

Hoàng Tử Cảnh qua góc nhìn một sử liệu

hững tình tiết xoay quanh Hoàng tử Cảnh giúp ta có thêm góc nhìn sâu hơn về mối quan hệ giữa chúa Nguyễn và phương Tây

hoang tu canh

Tác giả bài gốc: Nguyễn Thị Chân Quỳnh

Blog Lịch Sử tổng hợp và biên soạn

Bài viết này giới thiệu một tài liệu lịch sử độc đáo cùng các chi tiết xoay quanh nhân vật Hoàng tử Cảnh, từ chuyến đi sang Pháp cầu viện đến vai trò của ông trong những tranh cãi về kế vị triều Nguyễn. Nội dung dựa trên bản in năm 1879 của “Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Ký”, một cuốn sách không rõ tác giả, có nhiều điểm khác biệt so với bản in 1909 từng được ông Nguyễn Khắc Ngữ tái bản năm 1986. Bài viết cũng khái quát cuộc đời Hoàng tử Cảnh và một số giả thiết về việc vì sao Minh-Mệnh được chọn nối ngôi thay vì dòng đích tử của Hoàng tử Cảnh.

Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Ký” (1879)

Năm 1986, ông Nguyễn Khắc Ngữ đã cho in lại ở Montréal cuốn Sử Ký Đại Nam Việt Quốc Triều, vốn xuất bản lần đầu năm 1974 ở Sài Gòn. Đây là bản sao từ một bản in lần thứ năm (1909) của nhà in Dòng Tân Định. Ông Nguyễn Khắc Ngữ nêu rõ lý do tái bản là một số sử liệu trong sách hơi khác so với các bộ sử khác, nên mong muốn phổ biến để giới nghiên cứu dùng làm tài liệu tham khảo.

Về sau, người ta phát hiện thêm một bản in khác tại nhà in Tân Định, đề năm 1879 với nhan đề “Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Ký” (chữ “Quấc” thay vì “Quốc”) và cũng không nêu rõ tên tác giả. Cuốn này in trước bản 1909 khoảng 30 năm, nhưng không biết rõ là lần in thứ mấy. Nội dung và bố cục tương tự với bản 1909, đặc biệt có “Phần Phụ Thêm” được viết bằng văn vần (không thấy trong bản 1909). Mặt khác, văn phong còn cổ hơn, có đoạn ghi:

“Dưới tua khá giữ dám tình dế duôi,
Khắp chưng các phủ trong ngoài…
(…) Nguyện cầu cùng Đ.T. Cha,
Xuống ơn phù hộ ca-sa giúp rầy…”

Về cơ bản, cuốn “Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Ký” (1879) gồm Phần Tiểu dẫn, ghi từ thời nước ta còn là Giao-chỉ quận đến khi vua Gia-Long thống nhất; Phần Chính viết bằng văn xuôi (tương tự bản 1909); và Phần Phụ Thêm sáng tác dưới hình thức văn vần.

Phần Chính chia thành hai phần lớn:

  1. Phần thứ nhất (1737–65 đến 1786): Chép việc từ Hiếu Vũ Vương (1737–65) cho đến khi Giám mục Vêrô (Bá-đa-lộc) về cầu viện vua nước Pháp giúp nhà Nguyễn.
  2. Phần thứ hai (1786–1802): Từ khi Đức Thầy Vêrô sang Pháp đến lúc vua Gia-Long thống nhất đất nước, kiểm soát cả An Nam.

Trong phần này có nhiều chi tiết lạ, chẳng hạn chép rằng vua Gia-Long “mê sắc dục, ghét đạo” và chỉ “nói nặng” sau lưng Bá-đa-lộc vì sợ bị vị Giám mục này cãi ngay trước mặt. Tuy vậy, sách cũng có những sai sót, như chép vua Lê Chiêu Thống chết già ở Đại Minh (thực ra mất năm 28 tuổi), vua Quang Trung mất năm 45 tuổi (thực ra 39 tuổi)…

Phần Phụ Thêm bằng văn vần (từ trang 175–256), gồm bốn phụ đề:

  1. “Đông Cung nhựt trình” (tr. 175–188) – Kể chuyện Hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện.
  2. “Tự thánh thục đàng” (tr. 188–225) – Hồi tưởng thuở Tây Sơn bắt đạo, chia thành ba phần: “Tự thánh thục đàng vãn”, “Vãn tử đạo”, “Hối tình thuật đạo, vãn”.
  3. “Hàm oan chi từ” (tr. 226–246) – Bốn phần, trong đó có phê phán vua vì cho rằng e đạo Công giáo làm hại nước, rồi bác cả đạo Nho lẫn đạo Phật, viện dẫn câu chuyện đi sứ Tây Vực thời Hán Minh Đế rước nhầm Phật giáo về Trung Hoa.
  4. “Quảng Nam Đình” (tr. 247–256) – Gồm “Án sát sứ quan” yết thị chê “tả đạo” (đạo Thiên Chúa) khó tin, và “Chúng nhơn ca” phản bác quan điểm này, cho rằng không thể dựa vào hành động sai lầm của một vài phần tử mà quy chụp cho cả đạo.

Qua những đoạn trên, có thể thấy văn bản năm 1879 không chỉ ghi chép sử liệu mà còn bộc lộ thái độ tôn giáo, chính trị thời bấy giờ. Phản ánh khác biệt giữa những nhóm ủng hộ hoặc phản đối người Tây dương, đạo Công giáo hay Nho, Phật giáo.

“Đông Cung Nhựt Trình”

“Nhựt trình” ở đây không phải ghi chép theo ngày tháng mà chỉ thuật sơ lược chuyến đi cầu viện của Hoàng tử Cảnh khi vị Hoàng tử này còn rất nhỏ. Bên cạnh những chi tiết như việc Hoàng tử lên 4 tuổi đã rời Gia Định, sang Puducherry (Tiểu Tây, thuộc Pháp ở Ấn Độ), rồi dừng lại do Pháp gặp biến cố, đến 1786 mới có chiến hạm Aréthuse đưa sang Đại Tây (Pháp) v.v., bản văn cũng gán cho Hoàng tử Cảnh những câu nói khá già dặn, vượt tầm một đứa trẻ.

Đáng chú ý, mô tả về nước Pháp trong “Đông Cung Nhựt Trình” khá… “mẫu Á Đông”: cung điện “cửa son, lầu vàng” rực rỡ, và khi Giám mục Bá-đa-lộc yết kiến vua Louis XVI thì vẫn cúi lạy như ở triều đình nước Nam. Điều này cho thấy tác giả bản văn có thể chưa thực sự đặt chân tới Pháp mà chỉ dựa trên lời kể, hoặc “tưởng tượng” theo lễ nghi quen thuộc ở Việt Nam.

Trong lịch sử, Hoàng tử Cảnh rời Gia Định tháng 11 năm Giáp Thìn (1784), cùng Giám mục Bá-đa-lộc và hai tướng Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm, đến Tiểu Tây (Puducherry) tháng 2 năm 1785. Tại đây, đoàn phải chờ đến tháng 6 năm 1786, được Trấn mục Tiểu Tây cử chiến thuyền Aréthuse chở sang Pháp. Tháng 2 năm 1787, cả đoàn tới Paris, Hoàng tử Cảnh vào triều yết ở Versailles ngày 5/5/1787, được dân Pháp đón tiếp nồng nhiệt. Giám mục Bá-đa-lộc đã thuê thợ chải tóc cho Hoàng tử (thợ của Hoàng hậu Marie Antoinette), rồi may bộ y phục pha Á – Âu, bỏ áo dài quần lụa. Tranh Hoàng tử mặc áo đỏ, quấn khăn Leonard được treo ở Hàn lâm viện Hội họa và Điêu khắc năm 1791.

Ngày 28/11/1787, Bá-đa-lộc ký Hiệp ước Versailles với Ngoại trưởng Pháp, đổi lấy quân viện chống Tây Sơn bằng quyền lợi thương mại và nhượng đất Tourane (Đà Nẵng), Poulo Condor (Côn Đảo) cho Pháp. Tuy nhiên, do nội tình Pháp rối ren, Bá-đa-lộc lại tự bỏ tiền chiêu mộ binh sĩ, trang bị chiến thuyền Méduse ở Puducherry, sau cùng đưa Hoàng tử Cảnh về nước tháng 6 năm 1789.

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

Hoàng Tử Cảnh

Phần đông chỉ biết Hoàng tử Cảnh sang Pháp và qua đời vì bệnh đậu mùa, ít ai rõ ông mất năm bao nhiêu tuổi, hay đã lập công lao gì. Có người còn nhầm tưởng Hoàng tử Cảnh không để lại hậu duệ. Thật ra, dòng dõi ông đến đầu thế kỷ XX vẫn được lịch sử ghi nhận, nổi bật có Kỳ Ngoại Hầu Cường Để – hậu duệ đời thứ sáu của Gia-Long, được Phan Bội Châu tôn làm Minh chủ trong phong trào đấu tranh chống Pháp.

Tiểu sử

  • Sinh năm 1780 (Canh Tý) ở Gia Định, mẹ là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu (con quan Chưởng Doanh Tống Phúc Khuông).
  • Năm lên 4, Hoàng tử sang Pháp cầu viện cùng Bá-đa-lộc (1784–1789). Trở về, được lập làm Đông Cung Thái Tử năm 1794 (14 tuổi), giữ chức Nguyên Súy Quận Công, đặt phủ Nguyên Súy với các văn võ đại thần phụ tá.
  • Ông từng trấn giữ Gia Định, Diên Khánh, tham gia các trận đánh Tây Sơn ở Quảng Nam, Qui Nhơn (1794–1801).
  • Ngày 20/3/1801, Hoàng tử Cảnh mất vì bệnh đậu mùa, hưởng dương 22 tuổi, được truy thụy “Anh Duệ Hoàng Thái Tử”.

Sử chép Hoàng tử Cảnh có tư chất thông minh, hiếu học, thích nghe lời nói thẳng. Khi còn nhỏ, ông nhận ảnh hưởng sâu đậm từ Bá-đa-lộc, rất mộ đạo Thiên Chúa, nhưng cũng được bổ nhiệm nhiều bậc thầy Nho học (như Ngô Tòng Chu, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định) làm Phụ đạo. Điều này đôi lúc gây xung đột quan điểm, vì Bá-đa-lộc cổ vũ đạo Thiên Chúa, còn các thầy Nho như Ngô Tòng Chu muốn bài trừ đạo Phật, coi Phật và Lão “còn hại hơn cả các đạo dị thường khác”.

Tính cách

  • Nhân hậu: Hoàng tử từng xin giảm nhẹ cho dân Hà Tiên đang đói, nới lệnh cấm mua bán lương thực.
  • Nhu nhược: Khi Phó tướng Tống Viết Phước bất hoà với Bá-đa-lộc, ông thường nín nhịn, khiến vua Gia-Long phải nhắc nhở rằng làm Nguyên Súy cần cương quyết.
  • Mộ người Tây: Ông che chở cho các giáo sĩ và giáo dân Âu châu, khiến họ coi ông là “người bạn chân thành” trong bối cảnh chính trị phức tạp.

Hậu duệ

Hoàng tử Cảnh và Tống Thị Quyên sinh hai con trai: Mỹ Đường (Đán)Mỹ Thùy (Cảnh). Cả hai đều được phong tước Ứng Hòa Công và Thái Bình Công. Tuy nhiên, khi Minh-Mệnh lên ngôi, hai vị hoàng tôn này liên tiếp vướng tội (Mỹ Đường bị giáng làm thứ dân, còn Mỹ Thùy mắc bệnh chết khi chưa kịp giải tội). Một người cháu là Lệ Chung được phong tước Hầu để lo việc thờ phụng, về sau đổi thành Cảm Hóa Hầu (rồi Quận Công). Từ đó, dòng dõi trực hệ của Hoàng tử Cảnh suy yếu trong nội bộ hoàng gia, thậm chí tên tuổi con cháu về sau không được chính thức ghi đầy đủ trong phả hệ.

Đến đầu thế kỷ XX, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để xuất hiện như một hậu duệ của Hoàng tử Cảnh. Phan Bội Châu tôn Cường Để làm Minh chủ của Việt Nam Quang Phục Hội, hy vọng dựa vào tông phái Gia-Long để hiệu triệu lòng người. Tuy nhiên, hoạt động của Cường Để ở Nhật và Trung Quốc giai đoạn 1906–1914 gặp nhiều khó khăn. Sau này, Cường Để mất tại Tokyo năm 1951, để lại nhiều tranh cãi về con đường “quân chủ lập hiến” hay “dân chủ cộng hòa” mà giới chí sĩ Việt Nam từng lựa chọn.

Nghi vấn Minh Mạng

Khi Gia-Long qua đời, lẽ thường ngai vàng sẽ thuộc về đích tử của Đông Cung (Hoàng tử Cảnh). Vậy vì sao Minh-Mệnh (Hoàng tử Đảm) – lúc ấy không phải con trai trưởng – lại được chọn kế vị? Có thể tổng hợp một số giả thiết sau:

  1. Vấn Đề Tuổi Tác: Con Đông Cung còn nhỏ, chưa đủ kinh nghiệm. Thế nhưng khi Gia-Long mất (1820), Mỹ Đường và Mỹ Thùy cũng gần 20 tuổi, nên không hẳn là quá nhỏ.
  2. Mâu Thuẫn Tôn Giáo – Chính Trị: Hoàng tử Cảnh quá thân thiết với Giám mục Bá-đa-lộc và “người Tây”, lo ngại mất chủ quyền nếu ông (hoặc con ông) lên nối ngôi. Gia-Long nhìn xa, lựa chọn Hoàng tử Đảm, vốn không chịu ảnh hưởng đạo Thiên Chúa, coi đó là cách giữ vững độc lập nước nhà.
  3. Biện Pháp Phòng Hờ: Chính Gia-Long từng yêu cầu Nguyên phi (mẹ Hoàng tử Cảnh) nhận Hoàng tử Đảm làm con nuôi, trong khi mẹ Hoàng tử Đảm vẫn còn sống. Điều này có thể hàm ý “đặt nền móng” nếu sau này phải thay đổi người kế nghiệp.
  4. Cái Chết Và Tội Trạng: Hai con trai Hoàng tử Cảnh về sau đều gặp kết cục bi thảm. Có giả thuyết cho rằng Minh-Mệnh và một số đại thần trung thành với ông đã tìm cách “trừ hậu họa” bằng các vụ tố cáo, giáng tội để dập tắt hy vọng phái ủng hộ dòng Đông Cung. Sự tình cờ hay là chủ ý, đến nay vẫn là câu hỏi mở.
  5. Sự Ra Đời Của “Tứ Bất Lập”: Dưới triều Minh-Mệnh, có lệ “Tứ Bất Lập”: không lập Chính Cung, không lập Đông Cung, không lập Tể tướng và không lấy ai đỗ Trạng nguyên. Có người cho rằng lệ này xuất phát từ kinh nghiệm tranh chấp nối ngôi sau khi Đông Cung Cảnh qua đời. Thực tế, đời Gia-Long vẫn có Hoàng Hậu (Tống Thị) và Hoàng tử Cảnh từng được lập làm Đông Cung. Chỉ đến Minh-Mệnh, quy tắc “Tứ Bất Lập” mới trở nên rõ rệt, giúp thâu tóm quyền lực triều đình vào tay Hoàng đế.

Chính loạt câu hỏi này cho thấy vai trò phức tạp của Hoàng tử Cảnh trong lịch sử triều Nguyễn. Ông xuất hiện như một cầu nối với phương Tây, song cũng tiềm ẩn nguy cơ “mở đường” cho sự can dự của người Pháp vào nội bộ Việt Nam. Gia-Long tất nhiên trân trọng công lao của Bá-đa-lộc và binh lính Âu châu, nhưng đồng thời ông cũng muốn tránh lệ thuộc. Việc gả con gái của Tống Thị Khuông (Tống Thị Quyên) cho Hoàng tử Cảnh, lập Hoàng tử làm Đông Cung, rồi cuối cùng dòng dõi ấy vẫn không được kế nghiệp… tất cả phản ánh tính hai mặt của bối cảnh chính trị – tôn giáo thời bấy giờ.

Kết luận

Bản in “Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Ký” (1879) là một tư liệu vừa độc đáo vừa chứa nhiều “dị bản” so với các bộ sử chính thống. Những tình tiết xoay quanh Hoàng tử Cảnh giúp ta có thêm góc nhìn sâu hơn về mối quan hệ giữa chúa Nguyễn và phương Tây, cũng như những toan tính kế vị phức tạp trong nội bộ triều đình. Dẫu còn nhiều câu hỏi chưa lời giải, cuốn sách này vẫn là nguồn tham khảo bổ ích, góp phần soi tỏ lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX.

Rate this post

Chúng tôi không có quảng cáo gây phiền nhiễu. Không bán dữ liệu. Không giật tít.
Thay vào đó, chúng tôi có:

  • Những bài viết chuyên sâu, dễ đọc
  • Tài liệu chọn lọc, minh bạch nguồn gốc
  • Niềm đam mê bất tận với sự thật lịch sử
DONATE

Toàn bộ tiền donate sẽ được dùng để:

  • Nghiên cứu – Mua tài liệu, thuê dịch giả, kỹ thuật viên.
  • Duy trì máy chủ và bảo mật website
  • Mở rộng nội dung – Thêm nhiều chủ đề, bản đồ, minh họa

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM