Bài dịch từ tạp chí Warfare History Network
Trong bóng đêm dọc theo thượng nguồn sông Sài Gòn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, một trong hai chiếc thuyền tuần tra của Lực lượng Tuần tra Sông thuộc “Chiến dịch Canh Phòng Trên Sông” (Operation Game Warden) của Hải quân Hoa Kỳ đã tắt động cơ và dạt vào bờ sông. Ba bóng người nhảy ra khỏi thuyền và biến mất vào khu rừng rậm rạp. Chiếc thuyền thứ hai tiếp tục tiến về phía trước, rồi làm điều tương tự và ba bóng người nữa lại biến mất. Những người lính này nằm trong nhóm Tuần tra Trinh sát Tầm xa (LRRP) của Lục quân, một tổ phục kích gồm sáu người sẽ tìm kiếm Việt Cộng và đảm bảo an ninh cho trạm canh hai thuyền được bố trí trên sông, theo dõi lưu lượng giao thông của đối phương.
Đó là ngày 2 tháng 8 năm 1969, và Hạ sĩ David Larsen, 21 tuổi, là xạ thủ súng máy trên Thuyền Tuần tra Sông (PBR) 775, một trong hai chiếc thuyền sẽ đợi ở đó cho đến bình minh. Vào đầu Chiến dịch Canh Phòng Trên Sông, các con thuyền sẽ di chuyển lặng lẽ dọc theo các kênh rạch, nhưng trong bóng tối tĩnh mịch, tiếng động cơ quá lớn ngay cả ở vòng tua máy thấp nhất. Vì vậy, chiến thuật lúc này là đợi gần một nơi đối phương nghi ngờ sẽ băng qua, cột thuyền vào bờ, hoặc dưới tán cây nào đó, duy trì im lặng vô tuyến. Quan sát và lắng nghe tiếng thì thầm và tiếng nước bắn nhỏ khi đối phương băng qua sông, họ thường phải chờ đợi hàng giờ đồng hồ trong vô vọng.
Sĩ quan David Larsen đã được trao tặng Huân chương Hải quân vì những hành động của anh vào ngày 2 tháng 8 năm 1969. Larsen, được giao nhiệm vụ trên PBR-775 đã cầm chân khoảng 50 lính đối phương trên bờ sông Sài Gòn, cho phép ba thành viên của một đội phục kích được giải cứu thành công.
Lực lượng Tuần tra Sông (Lực lượng Đặc nhiệm 116) được thành lập vào tháng 12 năm 1965 bởi Bộ chỉ huy Hoa Kỳ tại Việt Nam nhằm ngăn chặn dòng người và vật lực chảy từ Campuchia vào Đồng bằng sông Cửu Long. Đến tháng 3 năm 1966, Chiến dịch Canh Phòng Trên Sông được triển khai, sử dụng những chiếc thuyền tuần tra sông dài 9,5 mét làm bằng sợi thủy tinh với thủy thủ đoàn gồm bốn người để dừng lại và lục soát các phương tiện di chuyển trên sông.
Dựa trên thiết kế thương mại của Công ty Du thuyền Hatteras, PBR Mark I và Mark II được chế tạo bởi United Boat Builders ở Bellingham, Washington. Thân tàu bằng sợi thủy tinh không thấm nước trước những sinh vật biển chán khoan và không tạo ra mảnh gỗ hoặc mảnh kim loại như các loại thuyền khác khi bị hỏa lực địch bắn trúng. Nó nặng khoảng 6,5 tấn với mớn nước khoảng 66 cm và được trang bị hai động cơ diesel 220 mã lực của General Motors, với tốc độ tối đa 20 hải lý/giờ. Hai máy bơm phản lực nước đẩy và điều khiển Mark I, khiến nó có khả năng cơ động cao, có thể dừng lại nhanh chóng và quay đầu hoàn toàn. Thuyền còn được trang bị radar tìm kiếm bề mặt Raytheon Pathfinder và hai radio AN/VRC-46. Về hỏa lực, nó có ba đại liên cỡ nòng .50 – hai khẩu trong tháp pháo ở mũi tàu và một khẩu ở phía sau. Thông thường, họ còn mang theo một súng máy M-60, một súng phóng lựu 40mm giữa tàu.
Các PBR thường hoạt động theo cặp, với một thuyền chặn và lên các thuyền tam bản, thuyền buồm và các loại khác, trong khi thuyền kia đứng ngoài theo dõi phục kích. Vào ban đêm, các thủy thủ đoàn PBR có nhiều quyền hạn hơn trong việc đối phó với các phương tiện di chuyển trên sông – tất cả đều được xem là thù địch vì có lệnh giới nghiêm từ hoàng hôn đến bình minh. Các thành viên thủy thủ đoàn có thể liên lạc về bộ chỉ huy để xin phép khai hỏa vào một tàu thuyền nhưng nếu bị bắn, họ có quyền bắn trả ngay mà không cần lệnh trực tiếp.
Một khi chỉ huy đội tuần tra chắc chắn kẻ địch đã ở dưới nước, cả hai thuyền đều sẽ nổ súng máy, súng phóng lựu. Pháo binh hoặc không quân hỗ trợ cũng có thể được gọi đến.
Đến năm 1967, hoạt động với các trực thăng Bell Aviation UH-1B và UH-1M Huey được vũ trang hạng nặng, các cuộc tuần tra PBR này đã hạn chế hoạt động của đối phương trên các con sông lớn của Việt Nam Cộng Hòa. Được đặt biệt danh là “Sói biển”, Phi đội Trực thăng Tấn công (Nhẹ) Ba (HAL-3) đã cung cấp hỗ trợ không quân tầm gần cho Lực lượng Tuần tra Sông cũng như trinh sát vũ trang và hỗ trợ hỏa lực cho Lực lượng SEAL của Hải quân.
Ngoài PBR cùng các nguồn lực khác của Hoa Kỳ đổ vào Việt Nam Cộng hòa phục vụ cho Chiến dịch Canh Phòng Trên Sông, Lực lượng Tuần tra Sông còn giám sát rất nhiều đơn vị SEAL. Ba trung đội SEAL 14 người, mỗi trung đội từ Đội SEAL 1 và Đội 2 của Hạm đội Đại Tây Dương được triển khai tại khu vực đồng bằng.
Vai trò chính của SEAL đối với Lực lượng Đặc nhiệm 116 là thu thập thông tin tình báo – vị trí và khả năng của các đơn vị địch và các kế hoạch tấn công có thể xảy ra. Các đơn vị SEAL sáu người được huấn luyện kỹ lưỡng tránh giao tranh, nếu có thể, nhưng thực hiện nhiều cuộc phục kích ngày đêm và tiến hành các cuộc đột kích để tiêu diệt hoặc bắt giữ các thủ lĩnh hoặc nhân viên liên lạc của Việt Cộng. Mặc dù SEAL có thể sử dụng nhiều loại phương tiện khác nhau trên sông, nhưng họ thường được vận chuyển bởi các thuyền tuần tra của Lực lượng Tuần tra Sông hoặc các trực thăng HAL-3, cũng như cung cấp hỗ trợ vũ trang và sẵn sàng đón họ sau mỗi nhiệm vụ.
Vào tháng 7 năm 1968, một sĩ quan chỉ huy chiến thuật của một biệt đội SEAL mô tả hoạt động tác chiến tại vùng đầm lầy ngập mặn rộng lớn phía nam Sài Gòn – hay còn được gọi là Đặc khu Rừng Sác. Ông viết: “Tán cây dày đặc đến mức một đội tuần tra có thể vô tình đi ngay bên cạnh một căn cứ Việt Cộng mà không hề hay biết. Tầm nhìn đôi khi chỉ từ 1,5m đến 3m và việc di chuyển im lặng gần như là bất khả thi… Trong một cuộc đấu súng với kẻ thù đang ẩn nấp ở khoảng cách 5 đến 10 mét, nguy cơ mất ít nhất hai thành viên đầu tiên của đội mình là rất cao.”
Trên sông Sài Gòn, vào một buổi tối sau khi trời tối ngày 2 tháng 8, thủy thủ Larsen cùng hai thủy thủ đoàn trên tàu PBR nghe thấy tiếng súng và sau đó là tiếng nổ của tên lửa. Larsen và mọi người ngay lập tức vào vị trí sẵn sàng để yểm trợ cho đội phục kích đang rút lui. Lệnh của họ yêu cầu ở lại trên các con tàu.
Ngay sau khi vụ nổ phá tan màn đêm, một cuộc gọi trên radio tới yêu cầu hỗ trợ từ các thủy thủ đoàn PBR. Đội phục kích giao tranh với bốn lính đối phương, và hóa ra họ chỉ là một phần của một lực lượng sau đó được ước tính là từ 35-50 người. Lực lượng này đáp trả dữ dội bằng tên lửa, giết chết hoặc gây trọng thương cho năm thành viên của đội phục kích.
Larsen kể lại rằng ông đã chộp lấy súng máy M-60 rồi nhảy lên – suýt nữa thì rơi khỏi thuyền khi đồng đội ném đai đạn cho ông.
Đến ngay khi đội phục kích sắp bị tràn ngập, Larsen khai hỏa M-60, hạ một lính đối phương và buộc hai người còn lại phải rút lui.
Larsen đơn thương độc mã duy trì phòng tuyến dưới hỏa lực liên tục của kẻ thù cho đến khi viện binh đến.
Trong lời tuyên dương để trao tặng Huân chương Hải quân, Larsen được mô tả là “người đầu tiên chiếm lấy vị trí phòng thủ để bảo đảm an toàn cho trực thăng sơ tán các thương binh. Bằng hành động dũng cảm khi một mình xông pha trực tiếp vào hỏa lực đối phương, Thủy thủ Larsen đã cứu mạng ba đồng đội của mình và bảo vệ các thủy thủ khác trong tình huống hiểm nghèo”.
Tám người đã được trao Huân chương Sao Đồng trong đêm đó, dù họ đã phá vỡ quy định rời thuyên.
Larsen sau này nói: “Vào khoảnh khắc đấy, bản năng tự nhiên sẽ cho bạn biết cần phải làm gì để hoàn thành nhiệm vụ”.
Larsen lớn lên ở Kansas và gia nhập Hải quân vào năm 1966 ngay sau khi tốt nghiệp trung học. Ông qua khóa huấn luyện tân binh ở San Diego, California. Sau khóa huấn luyện, ông đã có thời gian ở Bremerton, Washington, trước khi phục vụ một thời gian trên tàu USS Ranger ở Việt Nam. Từ đó, ông đến Hàn Quốc khi tàu USS Pueblo bị bắt giữ.
Larsen trở lại Mỹ để tham gia khóa đào tạo Sinh tồn, Trốn thoát, Chống bắt và Thoát hiểm (SERE) và chương trình đào tạo ngôn ngữ tại San Diego. Sau khi hoàn thành khóa huấn luyện, ông quay lại Việt Nam, phục vụ một năm trên tàu PBR thuộc River Division 593, River Patrol Flotilla FIVE, Lực lượng đặc nhiệm 116 (TF-116).