Lịch Sử Việt Nam

Khởi Nghĩa Hai Bà Trưng: Nguyên nhân, Diễn biến và Ý nghĩa

Khởi Nghĩa Hai Bà Trưng đánh dấu tinh thần bất khuất của người Việt trước sự thống trị của Trung Hoa, một truyền thống kéo dài mãi về sau

Khởi Nghĩa Hai Bà Trưng đánh dấu tinh thần bất khuất của người Việt trước sự thống trị của Trung Hoa, một truyền thống kéo dài mãi về sau


Sau khi nhà Triệu sụp đổ vào năm 111 TCN, nhà Tiền Hán cai trị nước ta trong 150 năm. Tuy Giao Chỉ bị sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, nhưng vẫn được hưởng thể chế “phụ dung” với quý tộc bản xứ cai trị nhân dân. Mỗi quận có quan Thái thú chịu quyền quan Thứ sử. Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ thứ nhất, nhà Tiền Hán suy yếu, Vương Mãng cướp ngôi. Giao Chỉ xa triều đình, không còn liên lạc với chính quốc. Nhiều quan lại Hán sang tỵ nạn, thay thế dần quan lại bản xứ, chiếm ruộng đất.

Quý tộc và nhân dân Giao Chỉ căm phẫn, nhất là khi Tô Định sang làm Thái thú bóc lột tàn bạo. Giống như đống thuốc súng chỉ chờ tia lửa, Giao Chỉ bùng nổ.

Nguyên nhân sâu xa hơn là từ trước Tô Định, dân Việt đã quá nghèo khổ. Đầu thế kỷ thứ nhất, Tích Quang và Nhậm Diên, hai lương lại Trung Quốc, đã phải kêu gọi các lại thuộc bớt tiền lương giúp dân bản địa lấy vợ lấy chồng. Họ cũng du nhập văn hóa Trung Quốc, dạy dân về lễ nghĩa và nghề canh tác. Nhờ vậy, dân mới có đủ thóc gạo ăn.

Trải qua 150 năm nô lệ, dân Việt lụn bại cả tinh thần lẫn vật chất. Họ chịu đựng vì trước đây Tích Quang, Nhậm Diện đã xoa dịu nỗi đau khổ của họ. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tạm thời. Khi hai lương lại này đi, Tô Định đến áp dụng chế độ bạo ngược, cùng với chính sách ngoại biên cứng rắn của nhà Đông Hán, đã khơi ngọn lửa oán hờn của nhân dân Nam Việt.

Nỗi uất hận dồn nén bùng nổ thành cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

Nổi dậy và thành lập nhà nước độc lập

Vào thời điểm đó, ở Mê Linh, làng Hạ Lôi, tổng Yên Lãng, tỉnh Phú Yên, có nhà Lạc tướng dòng dõi Lạc vương nổi tiếng uy danh. Con gái họ là Trưng Trắc, một người phụ nữ dũng cảm, đã kết hôn với Thi Sách, con trai Lạc tướng Chu Diên, lúc bấy giờ đang làm quan lệnh tại địa hạt này.

Thi Sách cũng là một vị anh hùng, khí phách, cùng Trưng Trắc nên duyên vợ chồng vì cả hai đều yêu dân thương nước và cùng chung chí hướng chống lại ách đô hộ của nhà Hán. Vợ chồng họ Đặng cùng mẹ (mẹ bà Trưng) là bà Man Thiện, cháu ngoại Lạc Vương, góa chồng từ sớm, đã âm mưu lật đổ chế độ Hán thuộc. Ý định của gia đình cách mạng này đã lọt vào mắt bọn thống trị, khiến Tô Định thi hành nhiều biện pháp nhằm ràng buộc và bắt bớ các nhà cách mạng người Việt, mà vợ chồng Thi Sách được coi là nguy hiểm nhất. Cần lưu ý rằng bên cạnh vợ chồng Thi Sách còn có Trưng Nhị, một chiến sĩ vô cùng hăng hái. Sau lời hiệu triệu bí mật của Thi Sách và Trưng Trắc, quý tộc, hào kiệt và nhân dân khắp nơi đều hưởng ứng, chẳng khác nào thời kỳ chống quân Tần trước đây.

Đầu tiên, các đồng chí ở Đông Sàng(?), Liên Chiểu, Phù Xá (Phúc Yên) đem quân đến giúp. Lúc đầu quân số chỉ có 2.000 người, sau đó được quân của các bộ lạc, các huyện, châu, quận gần xa nổi lên ủng hộ, lên đến hàng vạn người.

Khi cuộc tổ chức võ trang chống Hán còn đang trong vòng bí mật, Tô Định đã cho quân đến bắt vợ chồng ông Đặng Thi Sách. Bị dồn vào đường cùng, cờ Mê Linh buộc phải phất lên công khai, nhưng Thi Sách chưa chuẩn bị đầy đủ nên đã tử trận. Việc không may này không làm nản lòng hai vị nữ chiến sĩ; Bà Trưng vội thay chồng cầm quyền đại tướng, xông ra trước quân thù sau khi lập xong đại bản doanh ở Nam Nguyên (Hát Môn).

Quân cách mạng đánh thẳng vào Liên lâu thành (theo Maspéro và C. Patris, phủ trị của Giao Chỉ bộ bấy giờ đang ở phía Nam tỉnh Hà Đông, bên bờ sông Nhuệ gọi là thành Liên lâu).

Tương truyền khi xuất trận, hai Bà cưỡi voi, mặc áo giáp vàng, che lọng vàng, trang sức rất lộng lẫy, tinh thần không vì việc tang tóc mà suy giảm.

Quân Hán lúc bấy giờ phần nhiều là quân Bắc, vóc người to lớn, khí giới sắc bén, giáp trụ đầy đủ, tiến lui có phương pháp và kỷ luật, tướng tá thông thạo chiến thuật, chiến lược.

Quân Việt thì ô hợp, vũ khí thô sơ, thiếu thốn lại kém rèn luyện, ít kinh nghiệm chiến trường. Tuy vậy, khi hai quân gặp nhau, quân Việt nhờ có lòng căm thù giặc bốc mạnh như gió bão nên đánh rất hăng, quân Hán khắp nơi phải bỏ chạy. Chẳng bao lâu, các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và toàn bộ Giao Chỉ thuộc quyền kiểm soát của quân cách mạng. Núi sông của Lạc Việt lại trở về tay chủ cũ sau khi Tô Định và lũ bộ hạ chạy tháo thân về Nam Hải.

Dẹp yên quân Hán, thu được 65 thành, hai Bà xưng vương, đóng đô tại quê nhà là Mê Linh. Nền độc lập được thâu hồi từ năm Canh Tí đến tháng hai năm Quý Mão (40-43 sau Công nguyên). Các quy mô lập quốc chưa kịp thành hình và có điều đáng kể, hiệu lệnh cũng chưa thấu được các châu, quận xa vì đường giao thông khó khăn. Trên thực tế, uy quyền của hai Bà chỉ thi thố được trong nội địa Mê Linh và Chu Diên, nhiều nhất là trong thành ấp, quận Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi.

Đọc thêm:

Nhà Hán đàn áp

Trong khi Giao Chỉ nổ ra khởi nghĩa, nhà Đông Hán đang bận rộn dẹp loạn trong nước nên chưa thể trực tiếp đối phó với Hai Bà Trưng. Họ chỉ ra lệnh cho các quận miền Nam chuẩn bị xe cộ, thuyền bè, binh sĩ, bắc cầu, đắp đường và dự trữ lương thực.

Tháng 12 năm 17 Kiến Võ (tháng 1 năm 42), Hán triều cử Mã Viện, một lão tướng 70 tuổi vừa dẹp loạn Lý Quảng, làm Phục Ba tướng quân, chỉ huy cuộc viễn chinh. Phó tá của Mã Viện là Lưu Long và Đoàn Chí, phụ trách thủy quân.

Họ mang hơn một vạn binh sĩ từ các quận Tràng Sa, Quế Dương, Linh Lăng và Thương Ngô. Tháng 9 năm 17 Kiến Võ (năm 42), họ lấy thêm 12.000 quân từ các quận thuộc Giao Chỉ.

Bộ binh Hán từ Hồ Nam tiến xuống Quảng Tây và Quảng Đông, tập trung với thủy quân của Đoàn Chí ở Hợp Phố. Đoàn Chí chết vì bệnh, vua Hán ra lệnh cho Mã Viện tiến quân bằng đường thủy. Mã Viện đi tắt qua Quảng Yên rồi theo sông Thái Bình tiến vào nội địa. Quân lâu thuyền đi theo sau qua sông Bạch Đằng.

Trên đường tiến quân, quân Hán không gặp nhiều kháng cự. Có thể các bộ lạc chưa kịp tổ chức hoặc không chịu mệnh lệnh của Mê Linh. Thấy việc tiến sâu vào nội địa bất lợi, quân Hán rút về đóng ở Lãng Bạc (nay thuộc Bắc Ninh). Khí hậu khắc nghiệt nơi đây khiến quân Hán bị bệnh tật nhiều.

Tháng 3 năm 18 Kiến Võ (tháng 4 năm 43), quân ta tấn công Lãng Bạc. Trưng Vương đại bại, rút về Cẩm Khê (nay thuộc Phú Thọ). Theo Hậu Hán Thư, Lưu Long phá được nghĩa quân, bắt được Trưng Nhị. Mã Viện Truyện chép rằng Mã Viện đánh tan nghĩa quân ở Cẩm Khê. Tháng Giêng năm sau, Mã Viện chém Trưng Trắc và Trưng Nhị, gởi đầu về Lạc Vương báo tiệp.

Theo sử Việt và thần tích làng Hạ Lôi, chỉ có Trưng Nhị tử trận, Trưng Trắc lên núi Hi Sơn hóa. Dã sử Việt Nam nói hai Bà tự trầm ở Hát Giang.

Sau chiến thắng, Mã Viện tiến vào Cửu Chân, đánh tan quân của thủ túc Hai Bà Trưng là Đô Dương, chém hơn hai vạn thủ cấp.

Ý nghĩa cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng

Cuộc chiến chống ách đô hộ của Hai Bà Trưng xứng đáng được gọi là một cuộc Cách mạng. Đây là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, thể hiện tinh thần bất khuất và lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta.

Cuộc Cách mạng khởi đầu thắng lợi nhờ sự đoàn kết của các bộ lạc, nhưng do nhà nước tự chủ thời bấy giờ còn yếu, thiếu tổ chức vững chắc nên không thể chống lại sự phản công mạnh mẽ của quân Hán.

Nguyên nhân thất bại

  • Về mặt kinh tế: Quan hệ sản xuất thị tộc còn nặng nề.
  • Về mặt chính trị: Xu hướng phân tán tự lập còn mạnh.
  • Về mặt xã hội: Xã hội thị tộc mẫu hệ không thể tạo sự đoàn kết lâu dài.
  • Về mặt quân sự: Thiếu tổ chức và trang bị so với quân Hán.

Nhiều tài liệu lịch sử Trung Quốc cho thấy nguyên nhân chính của cuộc khởi nghĩa là do nhân dân căm phẫn ách cai trị tàn bạo của Tô Định và nhà Đông Hán. Thi Sách, chồng bà Trưng Trắc, chỉ là một phần nguyên nhân thúc đẩy cuộc khởi nghĩa bùng nổ sớm hơn.

Cuộc Cách mạng Hai Bà Trưng là một dấu son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Nó thể hiện tinh thần bất khuất, ý chí độc lập và lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân Việt Nam.

5/5 - (5 votes)
Sử Gia Phạm Văn Sơn
Phạm Văn Sơn (1915 - 1978) là sử gia Miền Nam Việt Nam. Trong vai trò nhà viết sử, ông có những bộ sách giá trị như bộ Việt Sử Tân Biên gồm 6 quyền, Việt Sử Toàn Thư, hay Quân Sử. Blog Lịch Sử tổng hợp những bài viết trích từ các tác phẩm của ông làm nguồn tài liệu tham khảo cho quý độc giả.