Lịch Sử Việt Nam

Kinh thành Huế và đô thành Thuận Hóa

Đô-Thành Thuận-Hóa phát triển từ buổi đầu Chúa Nguyễn mở cõi, liên tục dời dinh, qua thời Tây Sơn, rồi kinh đô nhà Nguyễn

lich su vung thuan hoa

Kinh thành Huế là chứng nhân cho chiều dài lịch sử đầy thăng trầm của dân tộc Việt Nam. Đây từng là trung tâm quyền lực của các Chúa Nguyễn, trải qua thời Tây Sơn, rồi trở thành kinh đô của triều Nguyễn thống nhất. Trước khi công trình thành quách ở Huế được hoàn thiện như ngày nay, vùng đất Thuận-Hóa đã trải qua nhiều lần chuyển dời dinh trấn, cùng vô số biến cố chiến tranh, tàn phá.

Dù vậy, nhờ ý chí kiên cường của tiền nhân và nỗ lực trùng tu qua nhiều triều đại, Kinh thành Huế vẫn lưu giữ một vẻ đẹp cổ kính, thanh tao, thể hiện bản sắc văn hóa Việt sâu đậm. Bài viết này sẽ điểm lại hành trình hình thành và xây dựng Đô-Thành Thuận-Hóa (Phú Xuân, Huế), cùng những biến cố lịch sử gắn liền với di sản độc đáo này.

Thuận Hóa dưới thời Chúa Nguyễn

Sau khi Thái sư Hưng Quốc Công Nguyễn Kim mất năm Ất Tỵ (1545), quyền lực triều Lê dần rơi vào tay họ Trịnh. Việc họ Trịnh lấn át, uy hiếp nhà Lê là khởi nguồn xung đột giữa hai dòng họ Trịnh – Nguyễn, dẫn đến cái chết của Lãng Quận Công Nguyễn Uông, con trai trưởng của Nguyễn Kim. Để tránh hiểm họa, Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng phải nhờ chị ruột, bà Ngọc Bảo (vốn là Thái Phi của Trịnh Kiểm), xin cho ông được trấn nhậm phương Nam.

Năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được bổ làm Trấn thủ Thuận-Châu và Hóa-Châu (hai châu Ô và châu Lý cũ). Ban đầu, ông lập trấn dinh ở xã Ái Tử, huyện Đăng Xương (sau là Triệu Phong), phía bắc Quảng Trị ngày nay. Thuận-Hóa lúc ấy bao gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và một phần Quảng Nam.

Về sau, năm Canh Ngọ (1570), Nguyễn Hoàng dời dinh đến Trà Bát (thuộc huyện Đăng Xương) và đặt tên là Cát Dinh. Tiếp đó, năm Bính Dần (1626), Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dời dinh về làng Phúc An (huyện Quảng Điền, Thừa Thiên), gọi là Chúa Phủ. Năm Bính Tý (1636), Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan bị quyến rũ bởi cảnh đẹp làng Kim Long, huyện Hương Trà, nên dời phủ đến đó.

Mãi đến tháng bảy, năm Đinh Mão (1687), Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái mới dời phủ về làng Phú Xuân (huyện Hương Trà) và gọi phủ là Chính Dinh. Tại đây, Chúa cho xây dựng cung điện, thành quách nguy nga, lấy núi Bằng Sơn (Ngự Bình ngày nay) làm bình phong. Phủ cũ ở Kim Long được sửa thành Thái Tông Miếu để thờ Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần.

Năm Nhâm Thìn (1712), Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu lập chúa phủ mới tại làng Bác Vọng (huyện Quảng Điền), cho đúc ấn “Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo”. Đến đời Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát, bờ cõi Đàng Trong mở mang hơn, có 12 dinh lớn, trong đó có Chính Dinh, Cựu Dinh (Ái Tử), Quảng-Bình dinh, Vũ Xá dinh, Bố Chính dinh, Quảng-Nam dinh, Phú-Yên dinh, Bình-Khang dinh, Bình-Thuận dinh, Trấn-Biên dinh, Phiên-Trấn dinh và Long-Hồ dinh.

Năm Tân Dậu (1741), Vũ Vương xây Chính Phủ (bên tả Chính Dinh cũ). Năm Giáp Tý (1744), Chúa Nguyễn Phúc Khoát chính thức xưng Vương, đổi Vương phủ thành Vương điện, Chính Phủ thành Đô-Thành, từ đó xuất hiện danh xưng “Đô-Thành Phú Xuân”.

Sau này, vì Vũ Vương nghe lời nịnh thần, say đắm tửu sắc, chính sự sa sút, dẫn đến đại loạn Trương Phúc Loan. Họ Trịnh lấy cớ “Dẹp ngụy thần, giúp người thân thích” đem quân đánh chiếm Đô-Thành năm Ất Mùi (1775). Không lâu sau, phong trào Tây Sơn nổi lên với khẩu hiệu “Diệt Trịnh, phù Nguyễn”, chiếm cứ Phú Xuân (năm Bính Ngọ 1786) và biến nơi này thành kinh đô của chính quyền Tây Sơn (từ 1788 đến 1801).

Giai đoạn Tây Sơn và sự tàn phá

Trong 26 năm loạn lạc (1775 – 1801), Phú Xuân liên tục bị chiến tranh tàn phá. Khi quân Trịnh vào, rồi quân Tây Sơn nổi dậy, đô thành trở nên tan hoang. Tuy nhiên, nhờ chính sách trọng dân của các Chúa Nguyễn trước kia, dân chúng Đàng Trong vẫn hướng về dòng họ Nguyễn, hết lòng giúp đỡ Nguyễn Ánh (Nguyễn Vương) phục quốc.

Năm Tân Dậu (1801), sau nhiều năm chống chọi, Nguyễn Vương thu phục Đô-Thành Phú Xuân. Đến năm Giáp Tý (1804), sau khi thống nhất cả nước, vua Gia Long xuống chỉ cho xây dựng lại đô thành, mở đầu cho quá trình đại quy mô nhằm định hình Phú Xuân thành kinh đô chính thức của triều Nguyễn.

Tái chiếm Phú Xuân và xây dựng Kinh thành

Sau khi lên ngôi, Gia Long quyết định xây dựng Huế (Phú Xuân) thành Kinh đô mới của nhà Nguyễn, nhằm thỏa mãn cả vai trò phòng thủ quân sự và trung tâm chính trị – văn hóa. Kế hoạch quy mô này bao gồm 3 lớp thành: Cung Thành, Hoàng Thành và Kinh Thành.

  • Cung Thành (đến năm 1822, Minh Mạng thứ ba, đổi thành Tử Cấm Thành): Chu vi hơn 300 trượng (khoảng 1.229 m), cao khoảng 3,72 m, xây gạch, tường trát vôi vàng. Bên trong có các cung điện quan trọng nhất của vua và hoàng gia.
  • Hoàng Thành: Chu vi hơn 600 trượng (khoảng 2.456 m), xây bằng gạch, cao khoảng 6 m, có hào bao quanh, cầu đá bắc qua. Ban đầu có các cửa Tả-Đoan, Hữu-Đoan, Hiển-Nhân, Chương-Đức, Củng-Thần (về sau đổi thành Hòa-Bình), phía đông, tây, bắc xây Đông-Khuyết-Đài, Tây-Khuyết-Đài, Bắc-Khuyết-Đài.
  • Kinh Thành: Có chu vi gần 2.500 trượng (gần 10 km), cao hơn 8 m, dày 20 m. Thành mở 11 cửa (10 cửa có lầu, 1 cửa không có lầu), bên ngoài có hào rộng, sâu, bờ xây đá. Góc đông bắc của Kinh Thành xây lồi ra một khu vực gọi là Thái-Bình-Đài (về sau đổi thành Trấn-Bình-Đài), nay thường gọi là Mang Cá. Xung quanh Kinh Thành còn có Hộ-Thành-Hà nối thông ra sông Hương, tạo vòng phòng thủ tự nhiên.

Công trình khổng lồ này đòi hỏi hàng chục năm mới hoàn thành, qua nhiều đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Quá trình xây cất được chia thành nhiều đợt, vừa xây mới, vừa tu bổ các hạng mục cũ. Dân các làng nằm trong khu vực quy hoạch được hỗ trợ di dời, nhận tiền bồi thường. Rất nhiều binh lính, thợ thuyền từ khắp nơi trong nước được điều đến phục vụ xây thành. Trong quá trình đó, triều đình phải cân đối ngân khố, liên tục nghỉ xả hơi cho binh thợ vào những thời điểm thời tiết khắc nghiệt.

Cấu trúc tổng quát của Đô-Thành Thuận-Hóa

Quá trình xây dựng rộng lớn gồm ba phần chính: Cung Thành, Hoàng Thành và Kinh Thành. Mỗi phần có quy mô, chiều cao, chu vi khác nhau, kèm hệ thống hào, cầu, cổng lầu. Với lối kiến trúc cân xứng địa hình, các công trình thành trì – cung điện của Kinh thành Huế hài hòa cùng thiên nhiên, tạo nên một nét đẹp trầm mặc, kín đáo.

1. Cung Thành (Tử Cấm Thành)

  • Chu vi hơn 300 trượng, cao 9 thước 3 tấc (khoảng 3,72 m).
  • Trong ngoài trát vôi vàng.
  • Nhiều cổng dẫn vào, như Tả-Túc, Hữu-Túc, Hưng-Khánh, Đông-An, Gia-Tường, Tây-An, Tường-Lân, Nghi-Phượng…

2. Hoàng Thành

  • Chu vi hơn 600 trượng, cao khoảng 6 m, có hào rộng 16 m.
  • Các cổng ban đầu: Tả-Đoan, Hữu-Đoan, Hiển-Nhân, Chương-Đức, Củng-Thần. Về sau cửa Tả-Đoan, Hữu-Đoan được phá để xây Ngọ Môn.
  • Ba mặt đông, tây, bắc có các đài: Đông-Khuyết, Tây-Khuyết, Bắc-Khuyết.

3. Kinh Thành

  • Chu vi gần 10 km, cao hơn 8 m, tường thành dày, có chân thành sâu khoảng 0,8 m.
  • Có 11 cửa, trong đó 10 cửa có lầu, 1 cửa không có lầu (Trường Định). Mặt trước có bốn cửa: Thể Nhân (trước là Thể Nguyên), Quảng Đức, Chính Nam, Đông Nam. Hai cửa phía đông (Chính Đông, Đông Bắc), hai cửa phía tây (Chính Tây, Tây Nam), hai cửa phía sau (Chính Bắc, Tây Bắc).
  • Góc đông bắc có Thái-Bình-Đài (sau đổi thành Trấn-Bình-Đài, còn gọi là Mang Cá).
  • Hào Kinh Thành rộng khoảng 30 m, sâu 4 m. Giữa hào và thành có giải đất phòng thủ rộng 10 m.
  • Mỗi cửa thành đều có cầu đá. Sông Hương chảy qua mặt trước Kinh Thành, ba mặt đông, tây, bắc có Hộ-Thành-Hà rộng khoảng 74 m, bờ kè đá ăn thông với sông Hương. Bên trong Kinh Thành còn có sông Ngự-Hà chảy cắt ngang.

Tu bổ, hoàn thiện qua các triều đại

Triều Gia Long (1802-1820) đặt nền móng, tiến hành quy hoạch và xây cất những hạng mục cơ bản. Quá trình này vô cùng nặng nề, kéo dài gần 15 năm, huy động hàng vạn binh lính, thợ thuyền. Sau những trận lụt, mưa lớn, một số đoạn thành bị sụt lở, triều đình tiếp tục công việc tu sửa.

Thời Minh Mạng (1820-1840), nhà vua chủ trương “hoàn thiện đến mức hoàn mỹ”. Nhiều công trình trọng yếu được tiếp tục xây dựng hoặc trùng tu:

  • Kỳ Đài (cột cờ) được hoàn thiện ba tầng, cột cờ cao hơn 29 m.
  • Bên trong Hoàng Thành và Kinh Thành, các lầu, cầu, hào, pháo đài được xây thêm, lát gạch, trùng tu.
  • Thay ngói lưu ly vàng, gia cố tường thành, đắp thêm lan can gạch, kè bờ hào, xây nhà vuông bên ngoài cầu cổng.
  • Các cửa như Chính Bắc, Tây Bắc, Chính Nam, Đông Nam… được xây lầu gác hai tầng.
  • Cung điện bên trong dần được hoàn tất, trong đó Ngọ Môn (xây năm 1833) là cổng chính phía nam Hoàng Thành, được xem như biểu tượng của Hoàng cung Huế.

Đến thời Thiệu Trị (1841-1847), các công trình tiếp tục được củng cố, tu sửa, nhất là việc xây đắp thành Trấn-Bình-Đài (Mang Cá), vét hồ, lấp những vùng trũng, duy tu bờ sông Hương, Hộ-Thành-Hà. Nói cách khác, hệ thống thành trì, cung điện ở Huế hoàn chỉnh chủ yếu dưới hai triều Gia Long và Minh Mạng, sau đó được tiếp nối, kiện toàn thêm qua thời Thiệu Trị.

Di sản của Đô thành Thuận-Hóa

Thành trì rộng lớn, nhưng không thô kệch; cung đình tráng lệ, nhưng không lòe loẹt. Các công trình xây dựng đều hài hòa với thiên nhiên, tạo nên nét mơ màng, thanh tao cho Huế. Sự kết hợp giữa tính uy nghi, bề thế của thành quách và vẻ dịu dàng của sông Hương, núi Ngự đã làm nên một phong thái rất riêng. Người Huế yêu nét kiều diễm của kinh thành, người Việt trân quý Huế mộng mơ.

Tuy nhiên, Phú Xuân (Huế) cũng phải trải qua nhiều biến cố trong thời cận – hiện đại. Người Pháp chiếm đóng Trấn-Bình-Đài (Mang Cá), rồi tiếp diễn những cuộc kháng chiến, chiến tranh khiến các cổng thành, miếu điện, cung đài bị bom đạn phá hủy nặng nề, đặc biệt giai đoạn 1945-1946, và cao điểm trong những năm 1968-1975. Kinh thành Huế đã từng gần như bị san phẳng, người dân không khỏi xót xa khi di sản tổ tiên để lại bị tàn phá.

May mắn thay, sau năm 1975, chính quyền và nhân dân nhận thức được giá trị văn hóa, mỹ thuật độc đáo của cố đô Huế. Nhiều dự án trùng tu, bảo tồn Kinh thành Huế đã được xúc tiến, với sự hỗ trợ của các tổ chức văn hóa quốc tế. Nhờ nỗ lực bền bỉ ấy, Huế dần được khôi phục những nét di sản quý giá, trở thành Di sản Văn hóa Thế giới do UNESCO công nhận. Điều này không chỉ mang lại niềm tự hào cho người Huế, người Việt, mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn đối với du khách năm châu, để cùng khám phá một trong những trung tâm văn hóa – lịch sử quan trọng nhất của Việt Nam.

Tổng kết lại, Đô-Thành Thuận-Hóa (Phú Xuân – Huế) hình thành và phát triển trải qua nhiều thế kỷ biến động. Từ buổi đầu Chúa Nguyễn mở cõi, liên tục dời dinh, đến khi trở thành kinh đô thời Tây Sơn, rồi chính thức làm Kinh đô của triều Nguyễn thống nhất. Công cuộc xây dựng, mở mang Kinh thành dưới thời Gia Long và Minh Mạng thể hiện tầm nhìn xa, sự dày công đầu tư. Trải qua bom đạn chiến tranh, sự tàn phá của thời gian, Huế vẫn giữ được chất “cổ kính” và “mộng mơ”. Ngày nay, cố đô Huế không chỉ là biểu tượng tự hào của người Việt, mà còn là điểm hội tụ của văn hóa Đông – Tây, trở thành di sản quý giá của nhân loại, được gìn giữ và phát huy cho muôn đời sau.

Rate this post

cards
Powered by paypal

Đăng ký theo dõi trang để nhận thông báo bài viết mới hàng tuần

ĐỌC THÊM

Kim Lưu
Chào mọi người, mình là Kim Lưu, người lập Blog Lịch Sử này. Hy vọng blog cung cấp cho các bạn nhiều kiến thức hữu ích và thú vị.