Chùa Một Cột ở Hà Nội nghe đã rất quen thuộc với chúng ta! Cái tên này thật ra là của cái lầu Liên Hoa, nằm trong một quần thể chùa chiền bao gồm cả chùa Tam Bảo, nhà thờ tổ, nhà khách… Tất cả được gọi chung là chùa Diên Hựu (lấy từ chữ “Diên Hựu” trong tên của lầu Liên Hoa đó).
Chùa Một Cột đặc biệt nhờ lối kiến trúc độc đáo: một lầu gỗ hình vuông được đặt trên một cột đá trồng giữa ao. Lầu được chống đỡ bởi các thanh gỗ hình đuôi sóc. Cái tổng thể nó trông như một bông hoa sen vươn lên từ mặt nước, nên mới có tên lầu Liên Hoa.
Lầu Liên Hoa có từ thời nhà Lý
Theo sử sách thì lầu Liên Hoa ra đời vào năm 1049 thời nhà Lý. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có viết:
“Mùa đông tháng 10, dựng chùa Diên Hựu ở phía tây của thành (thành Thăng Long). Trước đó, vua Lý Thái Tông (1028-1054) nằm mơ thấy Phật bà Quan Âm ngồi trên toà sen, dắt vua lên toà. Khi tỉnh, vua đem nói lại, có người bảo là điềm chẳng lành. Sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa ao, làm toà sen của Phật Quan Âm như đã thấy trong mộng. Đặt tượng Phật ngồi trên toà sen…” Thế là chùa Diên Hựu (chùa kéo dài tuổi thọ) thành hình.
Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho trùng tu, làm đẹp thêm cho lầu Liên Hoa, đào thêm ao, xây tháp báu ở phía trước… Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh ở núi Đọi (Hà Nam) có kể về chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) ở Thăng Long thế này:
“Giữa ao thơm Linh Chiểu, mọc lên một cột đá, trên cột đá nở một đoá sen nghìn cánh, trên hoa sen dựng một phương điện màu đỏ son, trong điện đặt pho tượng vàng rực Quan Thế Âm. Quanh ao là dãy hành lang có lan can chạm vẽ. Phía ngoài hành lang là ao lớn, các bên có cầu vồng để đi lại. Phía trước sân, hai bên tả hữu dựng hai tháp quý…”

Hai tháp quý này được xây gạch đất nung màu trắng, một mặt chạm rồng (kiểu thời Lý), mặt ngoài phủ men trắng, đã được phát hiện trong khu vực Chùa Diên Hựu (Chùa Một Cột) vào khoảng năm 1954. Thiền sư Huyền Quang – vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm đời Trần, đã từng làm thơ tả cảnh chùa Diên Hựu dưới trăng thu, trong bài thơ có nhắc đến hai ngôi tháp.
Trong thời gian trị vì của Vua Lý Nhân Tông, một tháp chuông đá cao vài trượng đã được xây thêm, và một quả chuông lớn đúc để treo ở đó. Tuy nhiên, chuông lại chẳng kêu, nên nó bị bỏ lại trong cánh đồng gần chùa. Cánh đồng này lại đầy rùa, do đó có tên là “Ruộng Chuông” (Quy Điền). Sau khi Vương Thông của nhà Minh bị Bình Định Vương vây hãm, tháp chuông đã bị phá hủy để lấy kim loại đúc vũ khí.
Vào các ngày mùa (mùng một âm lịch) và ngày rằm (mười lăm âm lịch), nhà vua thường đến thăm chùa để làm lễ. Hàng năm vào ngày Lễ Phật Đản (mùng tám tháng tư âm lịch), vua đều đến dự lễ tắm Phật. Đây là thời kỳ hoàng kim của chùa Diên Hựu. Từ đó đến nay, ngôi chùa cùng với đất nước đã trải qua nhiều thăng trầm, nhưng vẫn bền bỉ tồn tại và trải qua nhiều lần trùng tu.
Ý tưởng về sự ra đời của Chùa Một Cột
Ý tưởng xây dựng Chùa Một Cột có thể bắt nguồn từ thời Đinh Lê (thế kỷ X). Bằng chứng về điều này có thể được tìm thấy ở Hoa Lư, nơi vẫn còn tàn tích của một ngôi chùa Một Cột.
Thời nhà Lý, Chùa Một Cột, hay Chùa Diên Hựu, được mô tả là “Đóa sen nghìn cánh nở trên cột đá” đỡ lấy điện Phật. Dù cụm từ “nghìn cánh sen” có thể mang tính phóng đại trong thơ ca, nhưng kiến trúc thời xưa quả thực hoành tráng hơn. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra các phép đo cho thấy kích thước lớn hơn so với hiện tại, nhưng cơ sở của các phép đo này không rõ ràng. Những hình ảnh sớm nhất về Chùa Sen, có niên đại vào cuối thế kỷ 19 (trên trăm năm trước), cho thấy ngôi chùa trông tương tự như bây giờ nhưng đã có dấu hiệu xuống cấp, cảnh sắc xung quanh cũng có phần tiêu điều.
Những lần sửa chữa và thay đổi

Năm 1923, Trường Viễn Đông Bác Cổ đã trùng tu và mở rộng Chùa Một Cột, xây thêm các tường ngăn ở cả bốn mặt hồ xung quanh. Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm nên kết quả không được mỹ mãn. Kích thước bị thu nhỏ, mái hạ thấp, và mặc dù cảnh sắc trở nên gọn gàng hơn, nhưng lại thiếu đi vẻ hùng vĩ như xưa. Tuy vậy, nhờ phương tiện truyền thông, sách báo và những con tem do Bưu điện Đông Dương phát hành, hình ảnh Chùa Một Cột đã được quảng bá rộng rãi không chỉ trong nước mà còn ra cả thế giới.
Cuối năm 1954, trong quá trình thực thi Hiệp định Genève, quân Pháp chuẩn bị rút khỏi Hà Nội và Bắc Việt Nam. Vào ngày 11 tháng 9 năm 1954 (rằm tháng 8 âm lịch), người ta đã đặt chất nổ để phá hủy Chùa Một Cột. Ngôi chùa bị phá hủy từ nền móng vì chất nổ được giấu dưới bát hương. Nhưng tượng Bồ tát Quan Thế Âm thì lại bình an vô sự gần đó, chỉ bị mất mấy cánh tay bằng gỗ.

Sau khi tiếp quản Hà Nội, vài tháng sau, chính quyền đã quyết định khôi phục lại ngôi chùa. Chuyên gia Nguyễn Bá Lăng thuộc Cục Bảo tồn di tích đã được cử nghiên cứu bản vẽ và chỉ đạo công trường xây dựng. Bản vẽ dựa vào bức ảnh chụp từ cuối thế kỷ 19 của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Vì đây là bức ảnh trực diện, nên kích thước xưa, bao gồm chiều rộng, chiều cao, độ dốc mái, thậm chí cả chi tiết trên các bờ nóc, đã được phục chế chính xác.
Cột đá đường kính 1,20 mét và hệ thống giá chiêng bằng gỗ bên dưới được bảo toàn, còn gian đình vuông bằng gỗ bên trên được phục chế với mỗi cạnh rộng 4,20 mét, chiều cao từ sàn đến bờ mái là 2,20 mét. Những hình rồng trên bờ nóc, đặc trưng từ cuối Lê tới Nguyễn, đã được phục chế lại. Bốn góc mái hơi uốn cong hướng lên trên. Các họa tiết trang trí ở bốn góc mái theo bức ảnh xưa bị mờ nhòe do bào mòn, được phục dựng lại theo dạng đầu rồng khạc lá, khá điển hình trong kiến trúc cổ Bắc Bộ. Tường gỗ quanh điện thờ được làm theo kỹ thuật truyền thống.
Lan can được làm thuận tiện, và phần trang trí “quạt chả” ở hai đầu được chạm khắc theo kiểu của các đồ chạm khắc ở đình Tam Sơn thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Bên trong, phía sau điện thờ Bồ tát Quan Thế Âm được làm tôn nền bằng ván gỗ chạm khắc hình lưỡng long chầu nguyệt theo phong cách chạm khắc ở đình làng Đình Bảng (Bắc Ninh). Phía trên treo tấm biển có chữ Hán “Liên Hoa Đài”.
Đọc thêm:
Hiện nay
Ngôi chùa được làm mô hình thu nhỏ và dựng lại trong khu vườn bảo tàng ở Warszawa, Ba Lan, nhưng thay đổi thành bậc lên xuống bằng gỗ. Cách giải quyết này hợp lý hơn vì rất có thể xưa kia, người ta còn trèo lên bằng thang gỗ. Cuối thế kỷ 20, trong thời kỳ di tích được phục hồi, khu vực di tích lịch sử đã được mở rộng ra, với điện thờ chính là Tam Bảo nằm ở một khu vườn riêng biệt. Hiện nay khu vườn này đã được mở rộng thành công viên thành phố, trong khi khu vực xung quanh chùa Diên Hựu từ những năm 1980 lại được dùng để xây tòa nhà Bảo tàng Hồ Chí Minh đồ sộ ngay cạnh, cho thấy sự thiếu tôn trọng đối với di sản văn hóa cổ xưa. Dù vậy, du khách vẫn kéo đến Chùa Một Cột đông đúc, bởi vì ai cũng nhận ra đây là một biểu tượng đích thực của văn hóa kiến trúc Việt Nam.
