Tác giả bài gốc: Nghi Thủy
Blog Lịch Sử tổng hợp và biên soạn
Long Thành Công chúa Ngọc Tú là một nhân vật quan trọng đầu triều Nguyễn, gắn liền với nhiều biến động thăng trầm của lịch sử Việt Nam vào thế kỷ XVIII – XIX. Thân phận bà vừa phản ánh bi kịch của một thời loạn lạc, vừa thể hiện khí chất son sắt, đạo hạnh cao quý. Bài viết dưới đây nhằm tóm lược lại hành trạng của Công chúa, đồng thời phân tích những ngộ nhận, hư cấu về bà trong một số tài liệu sau này.
Xuất thân
Long Thành Công chúa Ngọc Tú (1759–1823) sinh ngày mồng 3 tháng Chạp năm Kỷ Mão (1759). Bà là trưởng nữ của Hưng Tổ Hiếu Khương hoàng đế Nguyễn Phước Côn (1) và bà nguyên phối Nguyễn Thị Hoàn (2).
Bối cảnh lịch sử thời ấy đầy biến động: chúa Nguyễn suy yếu do quyền thần Trương Phúc Loan thao túng triều chính, lại thêm quân Trịnh ở Đàng Ngoài đánh vào Phú Xuân (Thuận Hóa). Chính sự rối ren, tình cảnh nội bộ họ Nguyễn bất ổn khiến cha bà qua đời sớm, để lại mẹ con bà trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Bốn người con phải nương nhờ quê ngoại ở làng An Do (Quảng Trị), sống cảnh cơ hàn, lưu lạc giữa nhân dân.
Năm Giáp Ngọ [1774], họ Trịnh đánh vào Phú Xuân, Tây Sơn truy đuổi quyết liệt. Lúc bấy giờ, Nguyễn Phước Ánh (sau này là vua Gia Long) chỉ mới 15 tuổi, theo chúa Định Vương (Nguyễn Phước Thuần) chạy vào Nam, mở đầu cho chuỗi năm tháng binh biến. Mãi đến khoảng năm 1779, khi Nguyễn Phước Ánh được tôn làm Đại nguyên soái, lãnh đạo khởi nghĩa ở Gia Định, người mới sai cai cơ Lê Phước Điển vượt biển đón cung quyến vào Nam. Bấy giờ, công lao Lê Phước Điển hiển lộ, được Nguyễn Phước Ánh gả cho chị ruột mình là Công chúa Ngọc Tú làm phu thê.
Khí tiết trung trinh
Sau khi về với nhà chồng, Công chúa Ngọc Tú lại sớm chịu cảnh góa bụa. Năm Quý Mão (1783), quân Nguyễn đang đóng ở hòn Điệp Thạch (còn gọi hòn Đá Chồng), thì bị tướng Tây Sơn là Phan Tiến Thận tập kích. Trong tình cảnh cực kỳ nguy cấp, Lê Phước Điển xin mặc áo ngự, đứng ở mũi thuyền để đánh lạc hướng, giúp Nguyễn vương kịp xuống thuyền nhỏ chạy thoát ra đảo Côn Lôn. Hành động này khiến Lê Phước Điển cùng nhiều tướng sĩ bị bắt. Tây Sơn ra sức dụ hàng nhưng ông kiên quyết không theo, còn chửi mắng, cuối cùng bị giết.
Bấy giờ, Công chúa Ngọc Tú vẫn còn rất trẻ. Bà một lòng cảm nghĩa chồng, nhất định không tái giá, thường nói: “Điển làm tôi còn biết tử tiết, ta là vợ người sao dám có chí khác. Bao giờ lấy lại kinh đô cũ, ta sẽ xuất gia thờ Phật.” (3) Nguyễn vương cảm kích lòng son sắt ấy, hết lời khen ngợi và sau này, lúc khôi phục được cơ đồ, đã rước bà về Phú Xuân.
Năm Gia Long thứ nhất (1802), vua lập phủ đệ cho bà ở phường Cam Thụy. Trong suốt quãng thời gian còn lại, bà luôn ngỏ ý được cắt tóc xuất gia, song Gia Long không chấp thuận. Mãi đến cuối đời, ốm nặng, Minh Mạng (Thánh tổ) đích thân đến thăm, bà khóc lóc mà khẩn nài cho thỏa tâm nguyện. Tuy nhiên, Hoàng gia bàn luận với nhau, cho rằng “thân thể tóc da là của cha mẹ cho, lúc sống hay lúc chết cũng không nên hủy hoại” (5). Vì thế, di nguyện xuất gia của bà bị đình lại. Bà mất mùa đông năm Quý Mùi (1823), thọ 65 tuổi.
Để tưởng nhớ công lao và đức hạnh của Công chúa, Minh Mạng nghỉ chầu 5 ngày, lập đàn tứ tế, ban tặng thụy hiệu Long Thành Thái trưởng Công chúa, thụy Trinh Tĩnh. Vì bà không có con, triều đình lập Thường Tín công Nguyễn Phước Cự làm người thừa tự.
Dấu ấn Phật Giáo
Từ thuở còn ở miền Nam, Công chúa Ngọc Tú cùng hoàng gia đã có mối quan hệ mật thiết với các cao tăng đang hoằng hóa tại Nam Bộ như Phật Ý Linh Nhạc, Tổ Tông Viên Quang, Tổ Ấn Mật Hoằng, Tiên Giác Hải Tịnh… Đặc biệt, bà có duyên sự với Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt.
Từ một số ghi chép của L. Cadière, nhiều khả năng bà quy y và thọ tại gia Bồ-tát giới với sư Liễu Đạt, được ban pháp danh Tế Minh, hiệu Thiên Nhựt (10). Bà luôn thể hiện lòng tin kính Tam bảo, từng dâng cúng tiền của, ủng hộ trùng tu chùa Từ Ân (Gia Định) và chùa Quốc Ân (Thừa Thiên Huế). Trong tài liệu của L. Cadière (11) có đoạn đề cập rằng:
“Sự trùng tu chùa Quốc Ân có liên quan đến Công chúa triều Nguyễn, bà chị cả cùng mẹ với vua Gia Long, là Công chúa Ngọc Tú… Bà đã cúng 300 quan tiền… Vì thế tên của ngài Liễu Đạt và Công chúa Long Thành được ghi trang trọng trong sổ công đức của chùa.”
Qua những sự kiện trên, ta thấy Công chúa đã nỗ lực góp phần xây dựng, bảo vệ và tiếp nối dòng thiền Lâm Tế tại Đàng Trong. Chính điều này nói lên tấm lòng hoằng pháp hộ đạo của bà đối với Phật giáo từ những ngày còn gian khó cho đến khi hoàng triều được vững bền.
Tháp mộ

Công chúa Long Thành qua đời năm 1823, được an táng trong khuôn viên lăng Gia Long (lăng Thiên Thụ), nay thuộc xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Tháp mộ của bà mang nét kiến trúc đặc biệt, thường dễ nhầm tưởng với tháp của một tu sĩ Phật giáo. Tháp gồm 4 tầng, bao bọc bởi hai vòng thành.
Vòng thành bên trong dài 15m, rộng 9m, cao 1,5m, có cổng phía trước kèm bình phong. Tại đây dựng một bia đá năm 1838 khắc dòng chữ “Long Thành thái trưởng Công chúa thụy Trinh Tĩnh chi tháp”. Vòng la thành bên ngoài dài 24,6m, bao quanh lối cuốn tò vò, phía trên trang trí hoa sen Phật giáo (8).
Năm sau (1824), theo di huấn của vua Gia Long, Minh Mạng cho phụ thờ Công chúa Ngọc Tú ở điện lăng Thụy Thánh, chung với Hoàng hậu Hiếu Khang (mẹ của vua Gia Long). Đây là một biệt lệ hiếm thấy, thể hiện sự ghi nhận đặc biệt của triều đình dành cho Công chúa:
“Chị ta là trưởng Công chúa Ngọc Tú thờ mẹ trọn đạo làm con, lúc gian khổ giữ trọn trinh tiết, đức tốt như ngọc uyển, ngọc diễm để thơm về sau, vậy để sẵn vị thờ ở gian tả nhất tẩm điện làm chỗ ngày sau phụ hưởng.” (6)
Ngày nay, tháp mộ của bà vẫn còn nguyên vẹn, được chăm sóc khá kỹ lưỡng. Người dân địa phương quen gọi là “lăng Hoàng Cô”. Đây vừa là dấu tích lịch sử, vừa minh chứng cho một cuộc đời nhiều sóng gió nhưng vẹn toàn đức hạnh.
Tranh cãi về giai thoại tình ái
Mặc dù chính sử ghi chép khá rõ ràng, nhưng hậu thế lại có những tác phẩm và thông tin sai lệch về Long Thành Công chúa Ngọc Tú. Tiêu biểu là cuốn Lịch sử Phật giáo Đàng Trong (LSPGĐT) của tác giả Nguyễn Hiền Đức, xuất bản năm 1995, chương XI, tiết 2, trang 231-235. Ở đây, tác giả hư cấu toàn bộ cuộc đời Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt cùng mối quan hệ giữa vị thiền sư này với Công chúa Long Thành.
Trong sách LSPGĐT, ông Nguyễn Hiền Đức kể chuyện Công chúa si mê thiền sư đến mức “ôm tay ngài hôn một cách trìu mến”, rồi cả hai người đều tự vẫn: ngài Liễu Đạt tự thiêu, Công chúa uống thuốc độc. Sau đó, long vị bà được thờ bên cạnh long vị của Hòa thượng Liên Hoa (tức Liễu Đạt) trong chùa Từ Ân, gây nên những lời đồn đại không hay.
Đáng chú ý, nội dung này hoàn toàn phi lý, bởi lẽ:
- Công chúa Ngọc Tú mất năm 1823 tại Phú Xuân, được triều đình an táng và ban lễ nghi hết sức trang trọng, chứng tỏ bà không thể chết ở Gia Định.
- Không có bất kỳ ghi chép nào trong chính sử, tư liệu cận sự liên quan đến mối tình luyến ái do ông Nguyễn Hiền Đức dựng nên.
- Trên thực tế, việc thờ chung long vị những nhân vật “hữu công” ở chùa xưa là chuyện bình thường, không thể lấy cớ đó để dựng nên một giai thoại tình ái kịch tính, thiếu căn cứ.
Chính vì quá tin tưởng vào những ghi chép tùy tiện, nhiều tác giả sau này đã sao chép và “sáng tác” thêm. Từ đó, hình thành câu chuyện đầy tình tiết lâm ly, éo le mang mô-típ “Lan và Điệp”, khiến không ít độc giả ngộ nhận.
Tiểu thuyết hư cấu
Hệ lụy khác của sự hư cấu đến từ sách LSPGĐT là cuốn tiểu thuyết Chuyện tình của Liên Hoa hòa thượng (CTCLHHT) của tác giả Thích Như Điển, ấn hành năm 2010. Tác phẩm dày 632 trang, chia thành 12 chương, do tác giả quá tin vào hai bài vị thờ trong chùa Từ Ân mà “phóng tác” thành một câu chuyện tình bi thương giữa Hòa thượng Liên Hoa (tức Thiệt Thành Liễu Đạt) và Công chúa Ngọc Tú.
Trong tiểu thuyết này, tác giả mặc sức sáng tạo, còn chắp bút soạn ra nhiều bức thư tình, chiếu chỉ triều đình, khiến nhân vật Công chúa ở tuổi 65 vẫn bôn ba vào tận Gia Định tìm Hòa thượng, quỳ lạy trước phòng ngài trong chùa Đại Giác, rồi cả hai người đều qua đời trong bi kịch đẫm nước mắt. Tác giả Thích Như Điển khẳng định “đây là câu chuyện có thật đến 98%”, song chưa hề có khảo chứng lịch sử khách quan.
Hậu quả là, những bài viết, bình luận trên mạng internet dựa vào tiểu thuyết này cũng bị cuốn theo mạch “luyến ái ngang trái”, làm hoen ố danh dự hai nhân vật lịch sử đáng kính:
- Một người là Công chúa bậc trưởng cùng mẹ với vua Gia Long, bậc tôn quý, công lao hiển hiện đối với triều Nguyễn và Phật giáo nước nhà.
- Một người là Thiền sư thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35, có đóng góp cho việc hoằng hóa Phật giáo ở Đàng Trong, đáng được trân trọng.
Việc hư cấu sai sự thật không chỉ gây nhầm lẫn cho người đọc bình thường, mà còn xúc phạm nhân vật lịch sử, làm lạc hướng công chúng về giá trị cốt lõi của Phật giáo và truyền thống trung trinh, hiếu đạo của hoàng tộc Nguyễn.
Thực chất việc thờ chung long vị
Một nguyên nhân dẫn đến sự suy diễn sai lệch là hiện tượng thờ chung long vị tại các ngôi quốc tự, tổ đình sắc tứ. Ở chùa Từ Ân (Gia Định) cũng vậy, có thể do những lần trùng tu, di dời, người xưa gom gộp tất cả di vật, long vị hữu công về nơi thờ phụ.
Trước năm 1945, đa số các chùa chiền có sắc tứ (chùa do triều đình ban sắc, phong hiệu) thường thờ long vị những bậc đế vương, công thần, hoàng thân quốc thích ngay ở chánh tẩm hoặc chánh điện. Điều này thể hiện nét “Phật – Vương bất nhị” của Phật giáo Việt Nam thời quân chủ. Bởi vậy, dễ hiểu vì sao long vị của Công chúa Long Thành và Thiền sư Liễu Đạt cùng đặt ở chùa Từ Ân. Đây không phải bằng chứng cho bất kỳ “mối tình” nào mà chỉ đơn thuần để tưởng nhớ công lao, đức hạnh hộ pháp của họ.
Chuyện “tình ái” được kể lại theo mô-típ bi lụy, như “ôm tay, hôn tay, khóc lóc, tự thiêu, uống thuốc độc…” chỉ là câu chuyện hoàn toàn thiếu cơ sở, mang tính ngụy tạo. Nó càng trở nên lạc lõng, vô lý khi đặt bên cạnh các bản ghi chép chặt chẽ của chính sử.
Phản hồi
Từ khi ra đời, cuốn Lịch sử Phật giáo Đàng Trong của ông Nguyễn Hiền Đức đã đối diện nhiều phê bình về độ xác thực. Có ý kiến yêu cầu tác giả hiệu đính, chỉnh sửa, hoặc ít nhất phải có lời giải thích về những nội dung bất nhất, sai lạc. Thế nhưng, không hề có bất kỳ phản hồi nào, dẫn đến việc người đi sau vô tình sao chép, trích dẫn, khiến sai lầm càng lan rộng.
Chính vì vậy, bài học rút ra là người cầm bút viết sử, viết về bậc tiền nhân, cần kiểm chứng nguồn tài liệu cẩn thận, đối chiếu cùng chính sử, di cảo, tư liệu đáng tin cậy trước khi khẳng định hay “phóng tác”. Lịch sử là chuyện chung của nhiều thế hệ; nếu để sai sót thì hậu quả ảnh hưởng đến nhận thức xã hội, thậm chí làm tổn thương danh dự người xưa.
Trong trường hợp này, Long Thành Công chúa Ngọc Tú vốn xứng đáng nhận được sự tôn kính, bởi:
- Bà từng trải qua muôn vàn gian khổ, không nề hà hy sinh để ủng hộ em mình là Nguyễn Phước Ánh khôi phục lại cơ đồ họ Nguyễn.
- Bà vẹn tròn đạo nghĩa, không tái giá khi chồng tử tiết, luôn muốn dứt bỏ cõi tục để xuất gia.
- Bà góp công xây dựng, chấn hưng Phật giáo, để lại nhiều dấu ấn trong công cuộc trùng tu các ngôi chùa lớn từ Gia Định đến Thừa Thiên Huế.
Tóm lại
Nhìn chung, Long Thành Công chúa Ngọc Tú là một gương mặt tiêu biểu cho tầng lớp phụ nữ hoàng tộc nhà Nguyễn đầy son sắt, hiếu đạo, cũng như có công lao trong việc hộ trì Phật pháp. Bà mất đi, để lại di sản văn hóa – tôn giáo và những câu chuyện trung nghĩa, trinh liệt đáng quý cho hậu thế.
Qua câu chuyện về việc hư cấu “mối tình” giữa Công chúa và Thiền sư Liễu Đạt, ta thấy rõ tầm quan trọng của sự thận trọng và trách nhiệm trong biên soạn tài liệu lịch sử, đặc biệt khi đó là vấn đề liên quan đến nhân vật có thật. Mong rằng, người nghiên cứu và độc giả khi tiếp cận những giai thoại hoặc tác phẩm văn chương hư cấu sẽ tìm hiểu kỹ nguồn gốc, đối chiếu với sử liệu chính thống, để trân trọng đúng mức các bậc tiền nhân và giữ gìn giá trị lịch sử chân thực.