Blog Lịch Sử

Luật Hồi tỵ thời Nguyễn

Bài viết này giới thiệu khái quát về luật Hồi tỵ – một trong những quy định quan trọng nhằm kiểm soát quyền lực, ngăn ... Read more

luat hoi ty nha nguyen

Bài viết này giới thiệu khái quát về luật Hồi tỵ – một trong những quy định quan trọng nhằm kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa tham nhũng, chống cát cứ quan liêu thời Nguyễn. Hy vọng qua đây, bạn đọc sẽ có thêm góc nhìn về chính sách quản lý, giám sát quan lại của cha ông ta trong lịch sử.

Khái quát về luật Hồi tỵ

Luật Hồi tỵ (回避) mang hàm nghĩa “né tránh, trở về” – ban đầu quy định việc quan lại không được trở về nơi xuất thân để làm quan, nhằm ngăn họ kết bè phái, thiên vị người nhà, người thân quen. Qua thời gian, luật Hồi tỵ được mở rộng ý nghĩa để tránh bất cứ trường hợp nào quan lại có khả năng “dính líu” về mặt quan hệ gia đình, quê quán, thầy trò, thông gia… nếu được phân bổ công việc tại chính địa phương đó. Tất cả nhằm đảm bảo khách quan, minh bạch, hạn chế lạm quyền và tham nhũng trong đội ngũ quan lại.

Luật Hồi tỵ manh nha từ thời Lê Thánh Tông (1460-1497), được nêu rõ trong Lê triều Hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức). Đến triều Nguyễn, nhất là từ thời Minh Mạng (1820-1840) trở về sau, quy định này vẫn tiếp tục được duy trì và hoàn thiện. Ngự phê của các hoàng đế Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Thành Thái, Duy Tân… trên các châu bản đã ghi rất rõ nội dung và tinh thần của luật.

Hệ thống châu bản triều Nguyễn do Trung tâm Lưu trữ quốc gia I quản lý còn bảo tồn gần 50 văn bản gốc liên quan đến luật Hồi tỵ. Những văn bản này đều viết bằng chữ Hán – Nôm trên giấy dó, có bút tích ngự phê của các hoàng đế. Theo tác giả Hải Yến (Trung tâm Lưu trữ quốc gia I), các văn bản tập trung vào những giai đoạn:

  • Thời Minh Mệnh: 3 văn bản
  • Thời Thiệu Trị: 5 văn bản
  • Thời Tự Đức: 25 văn bản
  • Thời Thành Thái: 4 văn bản
  • Thời Duy Tân: 7 văn bản

Qua đó, có thể thấy triều Nguyễn áp dụng luật Hồi tỵ một cách nghiêm túc, chặt chẽ ở nhiều thời kỳ khác nhau, góp phần ngăn chặn tình trạng cát cứ, tham nhũng, giữ vững kỷ cương phép nước.

Nội dung chính của các châu bản liên quan đến luật Hồi tỵ

Dưới triều Nguyễn, tinh thần cốt lõi của luật Hồi tỵ là “phải né tránh” (hồi tỵ) trong các trường hợp sau:

  1. Quan lại có người thân thích (cha con, anh em, cô dì, chú bác,…) làm việc hoặc dự thi tại nơi mà vị quan ấy đang trực tiếp coi thi hay trực tiếp quản lý.
  2. Quan lại về quê mẹ, quê vợ, nơi có ngụ cư hoặc nơi từng theo học lúc nhỏ cũng phải “hồi tỵ” để đảm bảo không lạm quyền, nâng đỡ, thiên vị người quen.
  3. Người có quan hệ “thông gia” hoặc thầy trò mật thiết không được làm quan cùng một đơn vị hành chính.
  4. Quan hệ họ hàng xa hoặc “anh em vợ lẽ” có khi được loại trừ, tùy thời kỳ áp dụng, nhưng những người ruột thịt trực hệ vẫn phải tuân thủ.

Chúng ta có thể thấy rõ hơn qua một số văn bản châu bản tiêu biểu dưới đây (bản dịch của Hải Yến từ tài liệu gốc Hán – Nôm):

1. Về việc khảo quan và người thân dự thi

Trong tờ 195, tập 1, Minh Mệnh, có ghi:

“Các quan Khâm sai trường thi Hội tâu: Thư lại ty Thanh lại Bộ Hộ là Nguyễn Thừa Tín nguyên sung Đằng lục, có con là Hương cống Nguyễn Thừa Giảng vào dự thi mà (viên ấy) không xin hồi tỵ. Chúng thần đã bắt Nguyễn Thừa Tín, giao cho viên Tuần sát ngoài trường thi giam giữ.

Châu phê: Nguyễn Thừa Tín giao cho Bộ Lại tra xét, chức vụ hiện khuyết giao cho Bộ Hộ nhanh chóng chọn người khác thay, đưa vào trường thi làm việc.

Ngày 28 tháng 3 năm Minh Mệnh 3.”

Ý nghĩa: Nếu một khảo quan (người coi thi, chấm thi) có người thân dự thi, phải chủ động báo cáo để được miễn nhiệm hoặc điều chuyển. Nếu cố tình che giấu, sẽ bị trọng tội.

2. Về việc không được làm quan ở quê vợ, quê mẹ, nơi học tập

Trong tờ 203, tập 74, Minh Mệnh, ghi:

“Thần Nguyễn Cấp tâu: Ngày 3 tháng này, kính vâng minh dụ: Thự Bố chánh sứ Bình Định Nguyễn Văn Cấp, cho đổi là Nguyễn Cấp, điều đến làm thự Bố chánh sứ Quảng Trị. Thần kính xét, ngày tháng 5 năm ngoái, phụng Thượng dụ:

Bố chánh, Án sát đều là chức vụ quan lớn ở một nơi rất quan trọng. Truyền từ nay về sau, phàm Đình thần đề cử, trừ là quê chính, theo lệ nên hồi tỵ ra, còn lại dù không phải là quê chính, mà có ngụ cư hoặc quê mẹ, quê vợ và lúc nhỏ học ở đó thì phải làm tập tâu rõ đợi chỉ.

Thần nguyên khi làm việc ở Kinh, đã lấy người tỉnh Quảng Trị là Nguyễn Thị Tình làm vợ. Vậy thì tỉnh đó là quê vợ. Nay thần chịu ơn được điều đến giữ chức hàm ở tỉnh đó (Quảng Trị), thần không dám im lặng.

Châu phê: Sẽ có chỉ riêng

Ngày 28 tháng 11 năm Minh Mệnh 19.”

Hay một ví dụ khác, Châu bản Thiệu Trị, tờ 312, tập 36 (ngày 2 tháng 12 năm Thiệu Trị 6) nêu:

“Bộ Lại tâu: Thự Tuần phủ Trị Bình Nguyễn Đình Hưng dâng sớ trình bày: Chức Lại mục huyện Hải Lăng đang khuyết, xét thấy Phan Khắc Lưu là người mẫn cán, có thể bổ làm Lại mục huyện ấy. Nhưng viên ấy quê quán tại huyện này, theo luật phải hồi tỵ, xin điều bổ làm Lại mục huyện Minh Linh. Lại mục huyện Minh Linh xin điều bổ làm Lại mục huyện Hải Lăng… Cung nghĩ phụng chỉ: Chuẩn y tập tấu. Châu điểm.”

Ý nghĩa: Quan lại không được “đứng đầu” nơi mình có quê vợ, quê mẹ, hay chính quê quán, cũng như nơi mình ngụ cư hoặc học tập thuở nhỏ. Trong trường hợp có sai sót, họ phải lập tức làm tờ tâu để chờ chỉ thị từ cấp trên, tránh các hệ lụy về sau.

3. Về việc “anh em ruột, con cháu chú bác” cùng làm ở một nha môn

Châu bản Tự Đức, ngày 11 tháng 9 năm Tự Đức 1, có tờ trình của Hộ lý quan phòng Tuần phủ Hưng Yên, Thự Bố chánh sứ Nguyễn Hữu Tố:

“Nay căn cứ tờ bẩm của Thí sai kinh lịch ty Án sát sứ thuộc tỉnh là Ngô Huy Thiêm trình rằng: Viên đó cùng Chánh bát phẩm Thư lại ty Bố chánh sứ Ngô Huy Xuyên vốn là anh em ruột, … Vậy nên chăng cho hồi tỵ? …

Phụng chỉ: Chuẩn cho Ngô Huy Xuyên tránh né, chuyển cho tỉnh Nam Định bổ nhiệm vào chức khuyết.”

Ý nghĩa: Nếu anh em ruột cùng làm việc trong cùng một đơn vị, một người phải xin tránh (bị điều chuyển đi nơi khác) để đảm bảo không có sự thông đồng, lạm quyền giữa hai người cùng huyết thống.

4. Về việc quan hệ thông gia, thầy trò phải né tránh

Tờ châu bản ngày 24 tháng 10 năm Tự Đức 22 ghi:

“Đốc thần Hải Yên Phan Tam Tỉnh trình bày: Huyện viên huyện Tiên Minh là Chu Duy Tĩnh bẩm rằng huyện ấy thuộc phủ Nam Sách kiêm quản, viên Tri phủ mới là Nguyễn Khắc Phổ có quan hệ thông gia với viên ấy, theo lệ phải né tránh. … Bộ thần vâng tra lệ định năm Thiệu Trị 4 nghĩ nên cho viên đó được né tránh, xin đem viên ấy cải bổ Tri huyện Lập Thạch…”

Tờ tấu ngày 22 tháng 12 năm Tự Đức 32:

“Thần là Hồ Trọng Đình tâu: Nay theo Ngự sử đạo Định Yên của bản viện là Trần Chí Tín trình rằng: … Xét thấy lệ định là quan viên lớn nhỏ trong ngoài Kinh đô nếu như trong cùng một nha, người nào theo học mà tình nghĩa thầy trò mật thiết thì đều lệnh cho né tránh. Nay Chưởng ấn Hình khoa Nguyễn Liên đã là thầy giáo của viên ấy, nên xin né tránh… Dám xin tâu trình chờ chỉ. Châu điểm.”

Ý nghĩa: Bất kỳ mối quan hệ thân thiết nào (thông gia, thầy trò) cũng phải “hồi tỵ”, phòng ngừa hiện tượng nâng đỡ bất chính hay bao che sai phạm.

Một số thay đổi tùy theo triều đại

Luật Hồi tỵ không phải cứng nhắc hoàn toàn mà theo thời gian, triều đình Nguyễn cũng điều chỉnh cho phù hợp thực tế:

  • Triều Tự Đức: có quy định chặt chẽ hơn về quan hệ ruột thịt. Tuy nhiên, “anh em vợ lẽ” thì không phải né tránh. Tờ châu bản nêu rõ: “Viên phủ thần Lê Dụ xin tuân theo chỉ trước, vẫn sung làm Chủ khảo trường thi ấy … Trộm xét thấy trong điều lệ thi Hương có ghi: Phàm có người thân là anh em thúc bá, chú bác đồng đường và con cháu anh em vào dự thi thì chuẩn cho né tránh. Còn như anh em vợ lẽ thì không thấy đề cập đến… Nay vẫn đề nghị để viên ấy tiếp tục làm Chủ khảo trường thi Thừa Thiên.” Ý nghĩa: Mối quan hệ anh em vợ lẽ được xem là không đủ mức độ “ruột thịt” để chi phối hoặc gây nguy cơ lạm dụng. Đây là một chi tiết thể hiện tính linh hoạt trong thực thi chính sách của triều đình.
  • Việc xử lý vi phạm liên quan luật Hồi tỵ cũng được quy định rõ ràng: quan lại cố tình che giấu, làm trái nguyên tắc sẽ bị giáng chức, cách chức, thậm chí khép tội nặng (tùy tính chất, mức độ). Ngược lại, nếu chủ động tâu xin hoặc báo cáo sai phạm, triều đình thường giảm nhẹ hoặc không truy cứu.

Như vậy, qua nhiều châu bản khác nhau, chúng ta thấy rằng luật Hồi tỵ giữ vai trò thiết yếu trong việc tạo ra một nền hành chính chặt chẽ, minh bạch, hạn chế tiêu cực trong đội ngũ quan lại ở triều Nguyễn. Mục tiêu chính trị quan trọng nhất là ngăn chặn nạn “cha truyền con nối”, “cường hào ác bá” lộng quyền tại địa phương, đồng thời giữ thế kiểm soát từ trung ương.

Bài học lịch sử cho hiện tại

Phải nói rằng với quan điểm công khai, minh bạch, luật Hồi tỵ thời Nguyễn đã góp phần ngăn ngừa có hiệu quả trong việc phòng chống tham nhũng, tránh tình trạng “người trong một nhà” nắm toàn bộ quyền lực ở địa phương. Đây là bài học quý báu để chúng ta suy ngẫm trong bối cảnh quản lý và sử dụng nhân sự ngày nay.

Thực tế cho thấy, ở nhiều nơi, tình trạng cất nhắc người có quan hệ họ hàng hoặc “đồng hương”, “đồng môn” vào những vị trí chủ chốt vẫn xuất hiện. Không ít trường hợp, người được đề bạt có năng lực kém, thiếu phẩm chất, nhưng được bao che để thao túng quyền lực dưới dạng “nhóm lợi ích”. Từ đó, dẫn đến tham nhũng, cục bộ, gây hại cho xã hội và cản trở sự phát triển của đất nước.

Chính sách Hồi tỵ trong lịch sử chứng minh ý thức đề phòng, kiểm soát quyền lực của cha ông ta. Nhiều nguyên tắc “hồi tỵ” khi được áp dụng nghiêm túc đã đảm bảo tính khách quan, công bằng, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, ngăn chặn bè phái, tập trung quyền lực vào một nhóm người hay một gia tộc.

Nhìn lại, với hệ thống luật Hồi tỵ, triều Nguyễn đã hình thành khá sớm một cơ chế “phân quyền – giám sát” giữa trung ương và địa phương, giữa quan lại và người dân, giữa các tướng lĩnh với nhau. Tuy chưa phải hoàn hảo, nhưng chính cách làm nhất quán và có sự giám sát sát sao từ vua, đình thần cùng các quan tỉnh đã góp phần duy trì được tính kỷ luật, giữ gìn thanh liêm, giảm bớt tình trạng nhũng nhiễu – một vấn đề mà xã hội hiện đại vẫn luôn đau đầu tìm giải pháp khắc phục.


Trong bối cảnh chống tham nhũng, xây dựng bộ máy “chính quyền liêm chính” ngày nay, những bài học từ luật Hồi tỵ vẫn còn nguyên giá trị. Chúng ta có thể tham khảo tinh thần “tránh người thân, người quen”, thậm chí “tránh quê quán” trong bổ nhiệm, sắp xếp nhân sự, giữ tính minh bạch. Đây là hành trang quý báu mà lịch sử để lại, để thế hệ hôm nay có thể học tập và vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn.

Mong rằng, việc nghiên cứu và ghi nhận luật Hồi tỵ sẽ giúp chúng ta thêm trân trọng công lao của cha ông trong việc xây dựng thể chế, đồng thời soi sáng cho những nỗ lực cải cách hành chính, hạn chế tham nhũng, tiêu cực ở nước ta hiện nay.


Lời kết

Luật Hồi tỵ chính là minh chứng cho ý thức quản lý, kiểm soát quyền lực sớm của cha ông ta, góp phần xây dựng một nền hành chính minh bạch, kỷ cương. Mong rằng những kinh nghiệm lịch sử này sẽ tiếp tục được tham khảo, áp dụng trong công tác tổ chức, bổ nhiệm cán bộ thời hiện đại, để xây dựng một bộ máy tinh gọn, liêm chính, vì lợi ích chung của đất nước.

Rate this post

Chúng tôi không có quảng cáo gây phiền nhiễu. Không bán dữ liệu. Không giật tít.
Thay vào đó, chúng tôi có:

  • Những bài viết chuyên sâu, dễ đọc
  • Tài liệu chọn lọc, minh bạch nguồn gốc
  • Niềm đam mê bất tận với sự thật lịch sử
DONATE

Toàn bộ tiền donate sẽ được dùng để:

  • Nghiên cứu – Mua tài liệu, thuê dịch giả, kỹ thuật viên.
  • Duy trì máy chủ và bảo mật website
  • Mở rộng nội dung – Thêm nhiều chủ đề, bản đồ, minh họa

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM