Lịch Sử Việt Nam

Lược sử Đảng Cộng Sản Việt Nam

Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt quyết định trong cuộc chiến giành độc lập của dân tộc Việt Nam

lich su dang cong san viet nam

15 minutes

Việt Nam là một đất nước có lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, với nhiều cuộc đấu tranh chống ngoại xâm và xây dựng dân tộc. Trong dòng chảy lịch sử ấy, sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) đã đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt, quyết định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở thế kỷ 20 và tiếp tục có vai trò quan trọng trong thời đại ngày nay. Bài viết này sẽ điểm lại toàn bộ quá trình hình thành, phát triển của ĐCSVN, cũng như những cột mốc then chốt gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước và công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Bối cảnh ra đời

Vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Việt Nam cùng khu vực Đông Dương (gồm Việt Nam, Lào, Campuchia) chịu ách thống trị của thực dân Pháp. Sau khi hoàn tất quá trình bình định, chính quyền thuộc địa Pháp đã khai thác kinh tế, biến Đông Dương thành thị trường cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa cho chính quốc.

Đời sống nhân dân ngày càng đói khổ, trong khi phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi, song hầu hết vẫn theo khuynh hướng cũ: hoặc là bạo động vũ trang (Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám), hoặc là duy tân cải cách (Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh). Tuy nhiên, các phong trào này phần lớn thất bại vì thiếu một đường lối cách mạng nhất quán, không có tổ chức lãnh đạo chặt chẽ và không giải quyết được mâu thuẫn giai cấp.

Cùng thời điểm, trên thế giới xuất hiện chủ nghĩa Mác – Lênin như một hệ tư tưởng mới, cổ vũ cho cách mạng vô sản. Sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) đã chứng tỏ giai cấp công nhân có thể lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên lật đổ ách thống trị cũ, xây dựng xã hội mới. Đây chính là luồng gió cách mạng tác động mạnh mẽ đến các dân tộc thuộc địa, trong đó có Việt Nam.

Lúc bấy giờ, Nguyễn Ái Quốc (tên gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời trẻ) xuất hiện như một đại diện ưu tú của phong trào yêu nước Việt Nam. Với hoài bão tìm đường cứu nước, Người đã sang phương Tây, hoạt động trong các tổ chức quốc tế, đặc biệt là phong trào cộng sản và công nhân ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, đánh dấu bước chuyển quan trọng từ chủ nghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản.

Sự thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930

Đến cuối những năm 1920, phong trào yêu nước ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, kết hợp với tư tưởng cộng sản lan tỏa. Xuất hiện một số tổ chức cộng sản đầu tiên: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Tuy nhiên, các tổ chức này hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng, làm suy yếu sức mạnh chung của phong trào.

Nguyễn Ái Quốc nhận ra sự cần thiết phải thống nhất các tổ chức cộng sản. Đầu năm 1930, tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam chính thức được thành lập (lúc đầu mang tên Đảng Cộng sản Việt Nam, sau đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương). Bản “Chính cương vắn tắt” và “Sách lược vắn tắt” do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua, nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đồng thời tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930 là bước ngoặt lịch sử, đánh dấu giai cấp công nhân Việt Nam trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sau hơn nửa thế kỷ không ngừng tìm tòi con đường cứu nước, cách mạng Việt Nam cuối cùng có một chính đảng cách mạng lãnh đạo.

Giai đoạn 1930 – 1945: Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh chống thực dân, phong kiến

Ngay sau khi thành lập, ĐCSVN (lúc này gọi là Đảng Cộng sản Đông Dương) đã đối mặt với cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp. Tuy nhiên, phong trào cách mạng vẫn dâng cao. Tiêu biểu là Xô viết Nghệ-Tĩnh (1930–1931), nơi mà nông dân và công nhân vùng Nghệ An, Hà Tĩnh đã nổi dậy giành quyền làm chủ ở một số địa phương, lập nên chính quyền Xô viết. Tuy phong trào bị đàn áp đẫm máu, Xô viết Nghệ-Tĩnh đã khẳng định sức mạnh quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong giai đoạn 1936–1939, Đảng tận dụng bối cảnh chính trị thế giới (Mặt trận Nhân dân Pháp lên cầm quyền, chính sách nới lỏng thuộc địa…) để phát động phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Người dân đấu tranh đòi quyền tự do, dân sinh, dân chủ, đòi giảm sưu thuế… làm chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách.

Khi Chiến tranh Thế giới thứ II bùng nổ (1939), thực dân Pháp ở Đông Dương tăng cường đàn áp cách mạng. Đến tháng 9/1940, phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, Pháp – Nhật bắt tay nhau bóc lột, thống trị nhân dân ta. Đảng Cộng sản Đông Dương phân tích tình hình, chủ trương đoàn kết mọi lực lượng dân tộc, xây dựng Mặt trận Việt Minh (tháng 5/1941). Nguyễn Ái Quốc – lúc này đã về nước – chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941) tại Pác Bó (Cao Bằng), xác định nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc.

Dưới ngọn cờ Việt Minh, phong trào cách mạng lan rộng, quần chúng được tuyên truyền, tổ chức thành các đội tự vệ, cứu quốc. Cuối 1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam) được thành lập, do Võ Nguyên Giáp phụ trách.

Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Năm 1945, bối cảnh thế giới và khu vực chuyển biến mau lẹ. Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương, nhưng đến tháng 8 cùng năm, Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng bùng nổ.

Chớp thời cơ “ngàn năm có một” này, Đảng Cộng sản Đông Dương đã lãnh đạo toàn dân nổi dậy giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám. Chỉ trong vòng nửa tháng (từ 14/8 đến đầu tháng 9/1945), chính quyền về tay nhân dân trên khắp ba miền Bắc – Trung – Nam.

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam, chấm dứt hơn 80 năm thực dân Pháp thống trị, đồng thời khẳng định uy tín và vai trò to lớn của Đảng Cộng sản đối với toàn dân.

Kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954)

Ngay sau ngày độc lập, chính quyền non trẻ phải đương đầu với muôn vàn khó khăn: nạn đói, nạn dốt, ngân khố kiệt quệ, lại còn bị các thế lực ngoại bang nhòm ngó. Thực dân Pháp quay lại xâm lược Nam Bộ (23/9/1945), âm mưu đặt lại ách thống trị trên toàn cõi Việt Nam.

Đứng trước tình thế đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sức đàm phán để tránh chiến tranh, đồng thời kiên quyết chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài nếu kẻ thù không từ bỏ dã tâm. Đến tháng 12/1946, khi Pháp bội ước, tấn công Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Toàn quốc kháng chiến.

Trong suốt 9 năm kháng chiến gian khổ (1946–1954), Đảng thực hiện đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, động viên toàn dân tham gia bảo vệ độc lập, xây dựng nền tảng chính quyền cách mạng. Từ cuộc Chiến dịch Việt Bắc (1947) bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến đến các chiến dịch cục bộ, cuối cùng là Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) lừng lẫy năm châu, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đánh bại thực dân Pháp, buộc chúng ký Hiệp định Genève (7/1954), công nhận độc lập, chủ quyền của Việt Nam.

Chiến thắng Điện Biên Phủ mở ra một giai đoạn lịch sử mới. Tuy nhiên, Việt Nam chưa được thống nhất, đất nước bị chia cắt tạm thời ở vĩ tuyến 17. Miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh chống chính quyền tay sai và đế quốc can thiệp.

Thời kỳ 1954 – 1975: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thống nhất đất nước

Sau Hiệp định Genève, miền Bắc được giải phóng, trở thành hậu phương lớn của cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng nền tảng xã hội chủ nghĩa. Các kế hoạch 5 năm được triển khai, đề ra mục tiêu phát triển công – nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa nạn mù chữ…

Song song với quá trình xây dựng miền Bắc, Đảng lãnh đạo nhân dân miền Nam tiến hành đấu tranh cách mạng chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm (từ 1954 đến 1963), rồi chống chính quyền kế nhiệm và sự can thiệp ngày càng sâu của Mỹ. Phong trào Đồng khởi (1959–1960) nổ ra ở Bến Tre và nhiều tỉnh miền Nam, mở đầu cao trào đấu tranh vũ trang.

Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Đảng chủ trương xác lập hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước.

Kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)

Trước sự thất bại của chính quyền Sài Gòn trong việc bình định miền Nam, Mỹ trực tiếp đưa quân xâm lược (1965), biến cuộc chiến ở Việt Nam thành “cuộc chiến tranh cục bộ” quy mô lớn. Miền Bắc bị ném bom ác liệt, hạ tầng kinh tế – xã hội bị tàn phá nặng nề.

Trong hoàn cảnh khốc liệt ấy, Đảng kiên định đường lối kháng chiến, động viên nhân dân miền Bắc “vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Những tuyến đường huyền thoại như Đường Trường Sơn (Đường Hồ Chí Minh) nối hậu phương Bắc – tiền tuyến Nam, chứng tỏ ý chí và quyết tâm thống nhất đất nước.

Về đối ngoại, Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tranh thủ sự ủng hộ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cũng như các lực lượng tiến bộ trên thế giới phản đối chiến tranh phi nghĩa của Mỹ.

Sau những thất bại quân sự liên tiếp, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán ở Hội nghị Paris (1968–1973). Tháng 1/1973, Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ cam kết rút quân khỏi Việt Nam. Tận dụng thời cơ, Đảng lãnh đạo toàn dân giành thắng lợi hoàn toàn trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (4/1975), giải phóng Sài Gòn, kết thúc 30 năm chiến tranh.

Giai đoạn 1975 – 1986: Khắc phục hậu quả chiến tranh, thống nhất đất nước về mọi mặt

Ngày 30/4/1975, đất nước hoàn toàn thống nhất về lãnh thổ, song còn nhiều nhiệm vụ to lớn trước mắt. Miền Nam sau chiến tranh chịu tàn phá nặng nề, kinh tế – xã hội còn lạc hậu, phải nhanh chóng hòa nhập với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Năm 1976, Quốc hội khóa VI quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, chính thức thống nhất về mặt nhà nước.

Đảng Cộng Sản Việt Nam (từ năm 1976, Đảng Cộng sản Đông Dương đã trở thành Đảng Cộng sản Việt Nam một cách chính thức và thống nhất) tiến hành công cuộc xây dựng đất nước trên quy mô cả nước. Tuy nhiên, giai đoạn này cũng gặp nhiều khó khăn, do kinh tế thế giới biến động, cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung bộc lộ nhược điểm, và sự bao vây cấm vận từ bên ngoài kéo dài.

Từ cuối thập niên 1970 đến nửa đầu thập niên 1980, Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế – xã hội: lạm phát phi mã, thiếu hụt lương thực – thực phẩm, đời sống nhân dân rất gian nan. Tình hình đòi hỏi Đảng phải có sự đổi mới tư duy và phương pháp lãnh đạo, tìm cách thoát khỏi khủng hoảng.

Thời kỳ Đổi Mới (1986 – nay)

Năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định mở ra công cuộc Đổi Mới, khởi đầu bằng đổi mới tư duy kinh tế. Thay vì mô hình kế hoạch hóa tập trung cứng nhắc, Đảng và Nhà nước từng bước chấp nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích các thành phần kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, cải cách hành chính…

Nhờ Đổi Mới, Việt Nam dần vượt qua khủng hoảng, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Giai đoạn đầu thập niên 1990, Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, sau đó là Hoa Kỳ (1995), tham gia ASEAN (1995), gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007. Hội nhập kinh tế quốc tế giúp Việt Nam mở rộng thị trường, thu hút vốn đầu tư và công nghệ, thúc đẩy phát triển.

Song song với cải cách kinh tế, Đảng tiếp tục củng cố hệ thống chính trị, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm ổn định chính trị – xã hội. Các đại hội Đảng sau này (Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII) đều nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phòng chống tham nhũng, lãng phí; đồng thời đẩy mạnh cải cách, hội nhập, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Ngày nay, Việt Nam đã có bước chuyển lớn so với thời kỳ bao cấp: từ một nước kém phát triển, trở thành nước đang phát triển năng động, duy trì mức tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm liên tục. Thành tựu đáng kể về xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn, giáo dục, y tế… đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Vai trò và sứ mệnh hiện nay

Qua chặng đường gần một thế kỷ, Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn là lực lượng lãnh đạo duy nhất, chịu trách nhiệm cao nhất trước nhân dân về định hướng phát triển đất nước. Đảng khẳng định tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời linh hoạt, sáng tạo để thích ứng với bối cảnh toàn cầu hóa.

Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, bối cảnh chính trị – kinh tế thế giới phức tạp, Đảng phải đối mặt với nhiều thách thức:

  • Cải cách thể chế: Tiếp tục hoàn thiện bộ máy nhà nước, nâng cao hiệu quả quản trị, đảm bảo công khai, minh bạch.
  • Phát triển kinh tế: Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng đồng thời thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư vào công nghệ cao, công nghệ xanh.
  • Bảo vệ độc lập, chủ quyền: Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, kiên quyết bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nhất là ở Biển Đông.
  • Phát triển con người: Nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, chăm lo cho các đối tượng yếu thế, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập.
  • Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh: Đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Những nỗ lực này đòi hỏi sự đồng tâm hiệp lực của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân, để giữ vững và phát huy thành quả cách mạng, tiếp tục phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa hiện đại, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Kết luận

Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam gắn liền với lịch sử hiện đại của dân tộc – từ khi nước nhà bị thực dân Pháp đô hộ, đến cao trào đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước và bước vào kỷ nguyên hội nhập, phát triển. Đảng ra đời năm 1930, đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân và gắn kết phong trào yêu nước dưới ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại: Cách mạng Tháng Tám 1945, đánh bại thực dân Pháp (1954) và đế quốc Mỹ (1975), thống nhất đất nước, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.

Từ năm 1986, công cuộc Đổi Mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng, hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế, vươn lên thành một nền kinh tế đang phát triển đầy tiềm năng. Tuy nhiên, đất nước cũng như Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức mới trong giai đoạn toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0.

Cho dù trải qua những bước thăng trầm, Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn giữ vững vai trò nòng cốt, xác định sứ mệnh cao cả là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Dưới sự dẫn dắt của Đảng, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục con đường hội nhập, phát triển với nền tảng là truyền thống cách mạng kiên cường, kết hợp sáng tạo với xu hướng hiện đại, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Rate this post

ĐỌC THÊM

Kim Lưu
Chào mọi người, mình là Kim Lưu, người lập Blog Lịch Sử này. Hy vọng blog cung cấp cho các bạn nhiều kiến thức hữu ích và thú vị.