Blog Lịch Sử

Mối quan hệ Nhật – Trung – Hàn qua các thời kỳ lịch sử

Nhìn lại chặng đường từ cổ đại đến hiện đại, quan hệ Nhật – Trung – Hàn đã chuyển biến sâu sắc nhưng vẫn mang những dấu ấn lịch sử rõ nét.

Nguồn: Biên Soạn
dong hai dao nhat ban

Ba quốc gia Đông Bắc Á – Nhật Bản, Trung QuốcHàn Quốc (Triều Tiên) – có một lịch sử tương tác lâu đời và phức tạp. Từ thời cổ đại đến hiện đại, mối quan hệ Nhật – Trung – Hàn trải qua nhiều thăng trầm, bao gồm giao lưu văn hóa, buôn bán, những xung đột Nhật Bản – Trung Quốc – Hàn Quốc đẫm máu, cũng như các nỗ lực liên minh và hợp tác chính trị. Những tương tác này đã định hình lịch sử Đông Bắc Á và ảnh hưởng sâu sắc đến cục diện khu vực.

Thời cổ đại: Hình thành nền tảng giao lưu và trật tự khu vực

Ngay từ thời cổ đại, khu vực Đông Á đã hình thành một trật tự với Trung Hoa là trung tâm văn minh, còn Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên là các láng giềng chịu nhiều ảnh hưởng. Trung Quốc cổ đại thời Tần – Hán vươn tầm ảnh hưởng ra xung quanh: thiết lập các quận huyện trên đất Triều Tiên (nhà Hán chinh phục Cổ Triều Tiên năm 108 TCN) và mở đầu cho mô hình “chư hầu – thiên triều”. Người Triều Tiên học hỏi nhiều từ Trung Hoa về chữ viết, lễ nghi và kỹ thuật, trong khi người Nhật Bản thời YayoiKofun dần tiếp xúc với văn minh lục địa thông qua bán đảo Triều Tiên.

Ảnh hưởng văn hóa: Trung Hoa thời cổ là một cường quốc khu vực, có sức lan tỏa văn hóa mạnh mẽ tới các nước lân bang. Thông qua con đường di cư, giao thương và triều cống, các tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, đạo Lão cùng hệ thống chữ Hán đã thẩm thấu vào Triều Tiên và Nhật Bản. Chẳng hạn, khoảng thế kỷ 4-6 SCN, Phật giáo từ Trung Quốc du nhập vào Triều Tiên, rồi từ đó truyền tiếp sang Nhật Bản; đồng thời, triều đình Yamato của Nhật cũng tiếp thu chữ Hán và tri thức từ các học giả Triều Tiên và Trung Quốc. Sự tương đồng về văn hóa chữ Hán (Hán tự) và Nho giáo giữa ba nước bắt đầu hình thành từ đây, đặt nền tảng cho một “vùng văn hóa Đông Á” thống nhất phần nào về chữ viết và tư tưởng.

Quan hệ chính trị sơ khai: Trong thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên (thế kỷ 1 TCN – thế kỷ 7 SCN), các vương quốc trên bán đảo vừa triều cống Trung Hoa vừa cạnh tranh lẫn nhau. Nhật Bản thời kỳ này còn tương đối tách biệt, song cũng đã can dự vào bán đảo: sử sách ghi nhận Yamato từng liên minh với Bách Tế (Baekje) chống lại Tân La (Silla) và nhà Đường của Trung Quốc vào thế kỷ 7. Cuộc chiến Bạch Giang năm 663 (giữa liên minh Đường – Tân La và liên minh Bách Tế – Nhật Bản) là lần đầu tiên xảy ra xung đột quân sự trực tiếp giữa cả ba dân tộc. Kết quả, liên minh Đường – Tân La chiến thắng, Tân La thống nhất phần lớn bán đảo Triều Tiên năm 668 và thiết lập quan hệ chư hầu với nhà Đường. Mặc dù người Đường ban đầu đóng quân ở bán đảo, nhưng sau đó họ rút lui do kháng cự của Tân La. Sự kiện này đánh dấu việc Triều Tiên bước vào trật tự “Thiên triều – chư hầu” ổn định với Trung Hoa, còn Nhật Bản thì lui về củng cố nội lực, bắt đầu giai đoạn tự chủ phát triển mô hình nhà nước Thần đạo – Thiên hoàng.

Tóm lại, thời cổ đại đã hình thành những nền tảng đầu tiên của quan hệ ba nước: Trung Quốc thiết lập ảnh hưởng văn hóa và trật tự triều cống; Triều Tiên ở gần kề nên trở thành cầu nối văn minh và một phần trong hệ thống chư hầu; Nhật Bản tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa từ Trung Hoa thông qua Triều Tiên, dù chưa chịu sự chi phối chính trị trực tiếp nào từ “thiên triều”. Những viên gạch đầu tiên này đặt nền móng cho bức tranh quan hệ Nhật – Trung – Hàn ở các thời kỳ kế tiếp.

Thời trung đại: Triều cống, giao thương và những cuộc xung đột

Bước sang thời trung đại (khoảng thế kỷ 7 đến thế kỷ 18), quan hệ giữa ba nước phát triển trong khuôn khổ trật tự Nho giáo với Trung Hoa là trung tâm. Các triều đại Trung Quốc (Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh) duy trì hệ thống sách phong – triều cống với láng giềng. Cao Ly (Goryeo) rồi Triều Tiên (Joseon) trên bán đảo tự nhận làm chư hầu và thần phục thiên triều, định kỳ cử sứ đoàn sang nạp cống phẩm để đổi lấy sắc phong và thương mại. Trong khi đó, Nhật Bản thường tránh lệ thuộc Trung Hoa: từ thời NaraHeian, Nhật có gửi sứ bộ sang học hỏi nhà Đường nhưng không chấp nhận vai trò chư hầu; đến thời KamakuraMuromachi, Nhật Bản hạn chế ngoại giao, chỉ giao thương chọn lọc (thậm chí có thời kỳ còn xảy ra nạn cướp biển Oa khấu do người Nhật gây ra dọc bờ biển Trung Quốc và Triều Tiên).

Xung đột và trật tự khu vực: Mặc dù hệ thống triều cống giúp duy trì hòa bình tương đối, thời trung đại vẫn chứng kiến những cuộc xung đột lớn giữa ba nước. Thế kỷ 13, đế quốc Mông Cổ (nhà Nguyên) thôn tính Trung Hoa và xâm lược bán đảo Triều Tiên. Vương triều Cao Ly trở thành phiên thuộc của người Mông Cổ, phải phục vụ quân Nguyên. Dựa vào nguồn lực Triều Tiên và Trung Hoa, quân Mông Cổ hai lần tiến đánh Nhật Bản (1274 và 1281) nhưng đều thất bại do bão tố (được người Nhật tôn là “thần phong” kamikaZe che chở). Các cuộc xâm lăng này để lại hậu quả nặng nề cho Triều Tiên và làm Nhật Bản cảnh giác hơn với nguy cơ ngoại xâm. Sau thời Nguyên, nhà Minh (Trung Quốc) thiết lập lại trật tự và duy trì quan hệ hòa hiếu với nhà Triều Tiên (Triều đại Joseon từ 1392). Trong gần 200 năm đầu thời Joseon, Trung Quốc – Triều Tiên gắn bó khăng khít theo hệ chủ – khách; Triều Tiên chịu ảnh hưởng sâu của văn hóa Minh, xem mình là “tiểu Trung Hoa” ở Đông Á. Ngược lại, quan hệ giữa Nhật Bản và Triều Tiên trong thời kỳ này khá êm đềm: hai bên thiết lập thông thương thông qua đối tác trung gian (đảo Tsushima), và Triều Tiên nhiều lần cử sứ thần sang Nhật vào các dịp mừng tân vương, duy trì hữu hảo sau biến cố thế kỷ 13.

Tuy nhiên, cuối thế kỷ 16 chứng kiến mâu thuẫn bùng nổ dữ dội khi Nhật Bản chuyển hướng bành trướng. Năm 1592, Toyotomi Hideyoshi – vị tướng quân thống nhất Nhật Bản – phát động chiến dịch chinh phục Triều Tiên rồi tiến tiếp vào Trung Quốc. Khoảng 158.000 quân Nhật đổ bộ lên bán đảo Triều Tiên, mở màn cuộc chiến được người Triều Tiên gọi là “Nhâm Thìn Oa loạn” (1592–1598). Ban đầu quân Nhật chiếm ưu thế, nhanh chóng đánh chiếm Seoul và phần lớn bán đảo. Trước tình hình đó, nhà Minh đưa quân sang cứu viện cho Joseon. Liên quân Triều Tiên – Minh phản công, giao tranh ác liệt với quân Nhật tại Bình Nhưỡng và nhiều nơi khác. Dù người Nhật từng thắng vài trận lớn, họ dần sa lầy do quân dân Triều Tiên kháng cự quyết liệt và hải quân Triều Tiên (dưới sự chỉ huy của tướng Lý Thuấn Thần) làm chủ biển, cắt đứt tiếp tế của quân Nhật. Cuộc chiến kết thúc năm 1598 khi Hideyoshi qua đời và tàn quân Nhật phải triệt thoái khỏi Triều Tiên. Cuộc xâm lược Triều Tiên của Nhật Bản (1592–1598) rốt cuộc thất bại hoàn toàn nhờ sự kháng cự bền bỉ của Triều Tiên cùng viện trợ to lớn từ Trung Quốc. Cuộc chiến này để lại vết sẹo sâu trong quan hệ dân tộc: Triều Tiên và Trung Quốc đời sau vẫn ghi nhớ Nhật Bản như kẻ xâm lược tàn bạo, trong khi phía Nhật nuôi mộng phục thù và khẳng định vị thế cường quốc.

Sau chiến tranh, trật tự khu vực được tái lập: Nhật Bản bước vào thời Edo (Tokugawa) thực thi chính sách tỏa quốc (hạn chế ngoại thương, cấm truyền đạo Thiên Chúa), gần như đóng cửa với bên ngoài suốt hơn 2 thế kỷ. Quan hệ Nhật – Triều chỉ còn giới hạn ở những chuyến sứ thần Triều Tiên thỉnh thoảng sang thăm Edo, nhằm duy trì hòa bình sau cuộc chiến. Về phía Trung Hoa, nhà Minh sụp đổ (1644) và nhà Thanh do người Mãn lên thay. Triều Tiên lúc này gặp biến cố: quân Mãn Châu hai lần xâm lược (1627 và 1636), buộc Triều Tiên Nhân Tổ phải đầu hàng và chấp nhận nhà Thanh là chủ suzerain. Từ năm 1637, Triều Tiên trở thành nước chư hầu trung thành của nhà Thanh cho đến năm 1895. Dù người Triều Tiên trong lòng vẫn hoài nhớ nhà Minh, họ phải chấp nhận trật tự mới do Thanh đế đứng đầu. Trong khi đó, Nhật Bản thời Edo không giao thiệp với nhà Thanh (do tự cô lập), nhưng tiếp tục hấp thu văn hóa Trung Hoa qua sách vở và giao thương hạn chế với thương nhân Trung Quốc tại cảng Nagasaki.

Nhìn chung, thời trung đại quan hệ ba nước được đặc trưng bởi mô hình thiên triều – chư hầu do Trung Quốc dẫn dắt. Triều Tiên an phận trong trật tự này, gắn bó văn hóa và chính trị với Trung Hoa. Nhật Bản tuy không làm chư hầu nhưng cũng chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa, đồng thời tránh xung đột trực tiếp sau thất bại của Hideyoshi. Tuy vậy, những cuộc xung đột Nhật – Trung – Hàn thời trung đại – từ cuộc xâm lăng của Mông Cổ đến chiến tranh 7 năm trên bán đảo – đã gieo mầm cho những mối thù lịch sử và so kè quyền lực âm ỉ, chờ thời cơ bùng phát trong giai đoạn kế tiếp.

Thời cận đại: Xung đột quân sự và chuyển đổi cán cân quyền lực

Bước vào thế kỷ 19, trật tự phong kiến Đông Á bắt đầu lung lay trước sức ép của phương Tây. Nhật BảnTrung Quốc đối mặt với sự xâm nhập của các cường quốc Âu – Mỹ, nhưng phản ứng khác nhau dẫn đến chuyển biến tương lai khác biệt. Nhật Bản từ sau sự kiện tàu đen của Perry (1853) đã nhanh chóng cải tổ toàn diện dưới thời Minh Trị Duy Tân (1868), trở thành một quốc gia công nghiệp – quân sự hiện đại. Trong khi đó, nhà Thanh ở Trung Quốc lại suy yếu trầm trọng sau các cuộc Chiến tranh Nha phiến và phong trào nông dân, không đủ sức chống trả sức ép ngoại bang. Triều Tiên lúc này vẫn nằm trong quỹ đạo phong kiến Trung Hoa, cố bế quan tỏa cảng. Nhưng trước sự vươn lên của Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên sớm trở thành mục tiêu tranh giành ảnh hưởng giữa một bên là đế quốc Nhật Bản mới nổi, bên kia là đế chế Đại Thanh đang suy tàn.

Xung đột Nhật – Thanh về Triều Tiên: Mâu thuẫn đỉnh điểm bùng nổ thành Chiến tranh Trung – Nhật lần thứ nhất (1894–1895), mà nguyên nhân trực tiếp là tranh chấp quyền kiểm soát Triều Tiên. Lúc này Triều Tiên về danh nghĩa là chư hầu của nhà Thanh, nhưng Nhật Bản quyết tâm loại bỏ ảnh hưởng Trung Quốc để độc chiếm bán đảo. Chiến tranh nổ ra khi cả hai cường quốc đưa quân vào Triều Tiên năm 1894. Với sức mạnh vượt trội nhờ hiện đại hóa, Nhật Bản đánh bại hoàn toàn quân Thanh trên cả bộ và thủy. Cuộc chiến kết thúc nhanh chóng sau chưa đầy 1 năm, đánh dấu thất bại thảm hại của nhà Thanh và sự trỗi dậy của Nhật Bản ở Đông Á. Kết cục, Hiệp ước Shimonoseki (1895) buộc Trung Quốc công nhận Triều Tiên độc lập, chấm dứt quan hệ chư hầu kéo dài hàng thế kỷ giữa hai nước. Trên thực tế, “Triều Tiên độc lập” chỉ là bước đệm để Nhật Bản biến nơi này thành thuộc địa: sau khi thoát ảnh hưởng Trung Hoa, Triều Tiên rơi vào quỹ đạo Nhật và cuối cùng bị Nhật Bản thôn tính năm 1910. Ngoài ra, Thanh đình còn phải nhượng Đài Loan và Liêu Đông cho Nhật, xác nhận sự mất vị thế của Trung Hoa tại Đông Bắc Á.

Như vậy, bằng chiến thắng 1895, Nhật Bản đã phá vỡ trật tự cũ do Trung Hoa thống lĩnh và thiết lập vị thế cường quốc số một trong khu vực. Triều Tiên sau 1895 thành Đế quốc Đại Hàn (Gojong tự xưng hoàng đế để khẳng định độc lập), nhưng sự bảo hộ của Nhật ngày càng tăng. Sau khi đánh bại tiếp một đế quốc khác là Nga trong Chiến tranh Nga – Nhật (1904–1905), Nhật Bản loại bỏ nốt ảnh hưởng của Nga khỏi Mãn Châu và Triều Tiên. Năm 1905, Nhật ép Triều Tiên ký Hiệp ước Bảo hộ, tước quyền đối ngoại và đặt nền tảng cai trị. Đến năm 1910, Nhật Bản chính thức sáp nhập Triều Tiên, biến cả bán đảo thành thuộc địa với tên gọi “Chōsen”. Thời kỳ từ 1910–1945, Triều Tiên thuộc Nhật chịu sự cai trị khắc nghiệt: Nhật tiến hành đồng hóa văn hóa, khai thác kinh tế, và đàn áp các phong trào kháng Nhật của người Triều Tiên. Đây là giai đoạn để lại những ký ức đau thương nhất trong tâm thức dân tộc Hàn Quốc, tạo nên nút thắt lịch sử lâu dài trong quan hệ Nhật – Hàn sau này.

Song song với việc thâu tóm Triều Tiên, tham vọng của Nhật Bản tại Trung Quốc cũng không ngừng gia tăng. Sau Thế chiến I, Nhật Bản nhận thêm một số đặc quyền ở Sơn Đông (Trung Quốc) từ tay Đức. Đến thập niên 1930, chủ nghĩa quân phiệt Nhật đạt đỉnh cao: năm 1931, Nhật Bản xâm chiếm vùng Mãn Châu của Trung Quốc, lập ra chính quyền bù nhìn Mãn Châu Quốc. Tiếp đó, năm 1937, Nhật viện cớ sự kiện Lư Câu Kiều để mở rộng chiến tranh toàn diện với Trung Hoa Dân Quốc (lúc này nhà Thanh đã sụp đổ, Trung Quốc dưới chính phủ Quốc Dân Đảng). Chiến tranh Trung – Nhật lần thứ hai (1937–1945) bùng nổ và sáp nhập vào Đệ nhị Thế chiến. Quân phiệt Nhật chiếm hầu hết miền đông Trung Quốc, gây ra những thảm sát kinh hoàng (ví dụ: thảm sát Nam Kinh 1937). Trung Quốc kháng cự trong tình thế khó khăn, vừa chống Nhật vừa nội chiến Quốc – Cộng, mãi cho đến khi Nhật Bản thất bại trước phe Đồng Minh năm 1945. Thế chiến II kết thúc với sự đầu hàng của Nhật Bản sau hai quả bom nguyên tử, chấm dứt gần nửa thế kỷ xung đột không ngừng ở Đông Á. Trung Quốc (lúc này lực lượng Cộng sản đã mạnh lên) nổi lên trong phe chiến thắng, nhưng đất nước cũng kiệt quệ với hơn 14 năm kháng chiến chống Nhật. Triều Tiên thì được giải phóng khỏi ách thực dân Nhật, song lại rơi vào vòng xoáy mới của Chiến tranh Lạnh.

Thời cận đại, tương quan quyền lực giữa ba nước đã đảo chiều hoàn toàn so với trước. Nhật Bản từ vị trí kẻ học hỏi trở thành đế quốc thực dân thống trị, trong khi Trung Quốc mất vai trò trung tâm và chịu cảnh bị xâu xé. Quan hệ Nhật – Trung – Hàn thời kỳ này chủ yếu được định hình bởi xung đột quân sự ác liệt: từ chiến tranh 1894–1895, đến việc Nhật đô hộ Triều Tiên và xâm lược Trung Quốc, rồi cùng nhau lôi cuốn vào Thế chiến. Những cuộc chiến này không chỉ gây thương vong khổng lồ mà còn để lại di chứng lịch sử sâu sắc: mối thù hận từ thời chiến, các vấn đề như tội ác chiến tranh, lãnh thổ bị chiếm, v.v., trở thành trở ngại lâu dài cho quan hệ ngoại giao sau này. Đồng thời, cục diện mới nảy sinh khi Hoa Kỳ xuất hiện ở Đông Á sau 1945, mở ra chương hiện đại nơi cả ba quốc gia phải tái xác định vị trí của mình trong trật tự thế giới mới.

Thời hiện đại

Sau Thế chiến II, cục diện Đông Á chuyển sang trật tự Chiến tranh Lạnh do hai siêu cường định hình. Bán đảo Triều Tiên bị chia cắt thành Hàn Quốc (Nam)Triều Tiên (Bắc) theo vĩ tuyến 38, chịu ảnh hưởng bởi Mỹ và Liên Xô/Trung Quốc tương ứng. Nhật Bản bị quân đội Mỹ chiếm đóng (1945–1952) và sau đó trở thành đồng minh thân cận của Hoa Kỳ. Trung Quốc trải qua nội chiến (1945–1949) dẫn tới thắng lợi của Đảng Cộng sản; Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949, ngả về phía khối Xô viết. Như vậy, quan hệ giữa ba nước bước vào thời kỳ đối đầu ý thức hệ: Hàn Quốc và Nhật Bản đứng cùng phe tư bản chủ nghĩa do Mỹ dẫn đầu, còn Trung Quốc chung chí hướng với khối xã hội chủ nghĩa (đồng minh với Bắc Triều Tiên).

Chiến tranh và phân cực

Mâu thuẫn nóng bỏng bùng phát với Chiến tranh Triều Tiên (1950–1953). Bắc Triều Tiên được Trung Quốc và Liên Xô hỗ trợ đã tấn công Nam Triều Tiên; Hoa Kỳ dẫn đầu lực lượng Liên Hợp Quốc (trong đó hậu thuẫn từ phía Nhật Bản ở hậu cần) can thiệp bảo vệ Hàn Quốc. Cuộc chiến kết thúc trong bế tắc, bán đảo vẫn chia đôi, nhưng hệ quả là hố sâu thù địch giữa các bên ngày càng lớn. Trung QuốcBắc Triều Tiên gắn kết như môi với răng sau khi cùng trải qua chiến đấu gian khổ. Trong khi đó, Mỹ củng cố ảnh hưởng tại Đông Á: ký hiệp ước an ninh song phương với Nhật Bản (1951) và với Hàn Quốc (1953), thiết lập căn cứ quân sự và bố trí hàng chục nghìn quân đồn trú lâu dài ở cả Nhật lẫn Hàn Quốc. Điều này đảm bảo Nhật – Hàn nằm dưới “ô bảo hộ” của Mỹ, tạo liên minh kìm hãm Trung Quốc trong nhiều thập niên.

Trong bối cảnh đó, quan hệ ngoại giao chính thức giữa Trung Quốc với Nhật Bản và Hàn Quốc hầu như không tồn tại suốt giai đoạn 1949–1970s. Nhật Bản theo Mỹ không công nhận chính quyền Bắc Kinh cho đến năm 1972 (thay vào đó duy trì quan hệ với Đài Loan – Trung Hoa Dân Quốc trước đó). Hàn Quốc cũng tương tự, mãi năm 1992 mới thiết lập quan hệ với Trung Quốc, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Tuy nhiên, vẫn có những bước điều chỉnh quan trọng: Năm 1965, Nhật Bản và Hàn Quốc bình thường hóa quan hệ (Hiệp ước cơ bản Nhật-Hàn) dưới áp lực của Mỹ, dù sự hòa giải này mang tính hình thức – nhiều vấn đề lịch sử bị gác lại chứ chưa giải quyết triệt để.

Năm 1972, cú bắt tay Mỹ – Trung (giữa Nixon và Mao) mở đường cho Tokyo và Bắc Kinh ký thông cáo chung thiết lập quan hệ ngoại giao. Từ đây, Nhật – Trung chuyển sang giai đoạn giao lưu kinh tế, Nhật viện trợ và đầu tư nhiều vào Trung Quốc sau cải cách (1978). Hàn Quốc vẫn đối đầu với Bắc Triều Tiên – đồng minh của Trung Quốc – nhưng từ thập niên 1980 cũng ngầm cải thiện quan hệ kinh tế với Bắc Kinh, để rồi chính thức công nhận nhau năm 1992.

Như vậy, đến cuối thế kỷ 20, cả ba quốc gia Đông Bắc Á đều đã có quan hệ ngoại giao và thương mại song phương. Trung Quốc sau Chiến tranh Lạnh nổi lên như một thị trường khổng lồ; Nhật BảnHàn Quốc trở thành những con rồng kinh tế với công nghệ tiên tiến. Đây là tiền đề cho một giai đoạn mới: hợp tác và cạnh tranh đan xen trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Hướng tới hợp tác Đông Á

Bước sang thế kỷ 21, nhận thức được lợi ích chung, Nhật Bản – Trung Quốc – Hàn Quốc đã nỗ lực xây dựng cơ chế hợp tác ba bên. Từ cuối thập niên 1990, cả ba nước cùng tham gia các diễn đàn khu vực như ASEAN+3, APEC… Năm 2008, lần đầu tiên Hội nghị thượng đỉnh ba bên Trung – Nhật – Hàn được tổ chức độc lập tại Fukuoka, Nhật Bản. Kể từ đó, các nhà lãnh đạo ba nước định kỳ nhóm họp (trừ những giai đoạn gián đoạn vì căng thẳng ngoại giao) để thảo luận về thương mại, an ninh và nhiều vấn đề khu vực.

Hợp tác kinh tế giữa ba cường quốc Đông Á phát triển vượt bậc: họ trở thành đối tác thương mại hàng đầu của nhau, cùng tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Những kênh đối thoại ba bên được thiết lập, ví dụ Ban Thư ký Hợp tác ba bên (đặt tại Seoul từ 2011) nhằm thúc đẩy các dự án chung. Về văn hóa – xã hội, giao lưu nhân dân cũng gia tăng mạnh mẽ: du lịch, du học giữa ba nước bùng nổ; làn sóng Hallyu (văn hóa Hàn) lan sang Trung Quốc và Nhật, trong khi anime Nhật và phim Hoa ngữ cũng được giới trẻ Hàn Quốc đón nhận.

Mặc dù vậy, mâu thuẫn lịch sử và địa chính trị giữa ba bên chưa bao giờ biến mất, thậm chí có lúc nổi cộm. Những năm 2010 đã chứng kiến các cuộc tranh cãi gay gắt về quá khứ chiến tranh: vấn đề phụ nữ mua vui (comfort women) thời Nhật chiếm đóng, tranh chấp chủ quyền đảo Dokdo/Takeshima giữa Hàn – Nhật, hay vụ Thủ tướng Nhật viếng đền Yasukuni khiến Trung Quốc và Hàn Quốc phẫn nộ. Giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng tồn tại bất đồng sâu sắc về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông và việc Trung Quốc tăng cường sức mạnh quân sự. Hàn Quốc và Trung Quốc đôi khi căng thẳng về ảnh hưởng văn hóa (ví dụ tranh luận về di sản Kimchi hay lịch sử vương quốc Cao Câu Ly) và đặc biệt là vụ Hàn Quốc cho Mỹ triển khai hệ thống THAAD (2016) khiến Bắc Kinh trả đũa kinh tế. Tuy nhiên, các bên đều cố gắng kiềm chế xung đột vì lợi ích chung về ổn định khu vực. Một ví dụ tiêu biểu là bất chấp những bất đồng, hội nghị thượng đỉnh Trung-Nhật-Hàn vẫn được khôi phục vào năm 2018 và 2019 sau giai đoạn đóng băng, và gần đây nhất là hội nghị lần thứ 9 tháng 5/2024 tại Seoul nhằm tái khẳng định cam kết hợp tác ba bên. Lãnh đạo ba nước tiếp tục nhấn mạnh mục tiêu xây dựng một cơ chế đối thoại Đông Á cởi mở, thúc đẩy thương mại tự do và phối hợp trong các vấn đề như chống biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng và phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.

Vai trò của Mỹ và cục diện mới

Trong thời hiện đại, Hoa Kỳ vẫn là nhân tố ảnh hưởng lớn đến tam giác Nhật – Trung – Hàn. Mỹ coi Nhật Bản và Hàn Quốc là hai đồng minh chủ chốt ở châu Á, thường xuyên thúc ép họ gác lại bất đồng để hình thành mặt trận thống nhất đối phó với các thách thức chung (như chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên hay sự trỗi dậy của Trung Quốc). Những năm gần đây, trước cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung, Washington càng khuyến khích Tokyo và Seoul tăng cường quan hệ an ninh song phương cũng như hợp tác ba bên cùng Mỹ.

Điều này đôi khi đặt Hàn Quốc vào thế khó xử giữa hai cường quốc lớn (Mỹ và Trung Quốc), nhưng đồng thời cũng tạo động lực hòa giải Nhật – Hàn phần nào (như việc hai nước chia sẻ thông tin tình báo về Triều Tiên, ký kết GSOMIA). Tình hình khu vực Đông Á đầu thế kỷ 21 vì thế có thể được ví như một “mắt xích” của cả hợp tác lẫn cạnh tranh: kinh tế đan xen nhưng địa chính trị nhiều mâu thuẫn chồng chéo.

Kết luận

Nhìn lại chặng đường từ cổ đại đến hiện đại, quan hệ Nhật – Trung – Hàn đã chuyển biến sâu sắc nhưng vẫn mang những dấu ấn lịch sử rõ nét. Nếu như nghìn năm trước, Trung Hoa giữ vị thế bá chủ văn hóa và các nước láng giềng phụ thuộc vào trật tự thiên triều, thì ngày nay cục diện đã đa dạng và cân bằng hơn nhiều. Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc hiện là ba nền kinh tế và thế lực hàng đầu châu Á, cùng tồn tại trong hợp tác và cạnh tranh đan xen. Họ chia sẻ lợi ích chung trong thịnh vượng kinh tế và hòa bình khu vực, nhưng cũng không dễ gì xóa bỏ hoàn toàn những bất đồng do lịch sử để lại và tham vọng chiến lược riêng.

Điều đáng mừng là tất cả các bên đều nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ tay ba này đối với tương lai đối ngoại Đông Á. Dù còn mâu thuẫn, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc đang nỗ lực xây dựng lòng tin, thông qua các cơ chế đối thoại và hợp tác thực chất trong thế kỷ 21. Chặng đường phía trước đòi hỏi sự chân thành và kiên trì, nhưng lịch sử cho thấy ba quốc gia Đông Bắc Á này có đủ gắn kết về văn hóa và đủ khả năng thích ứng để cùng nhau hướng tới một khu vực ổn định, phát triển.

Rate this post

Chúng tôi không có quảng cáo gây phiền nhiễu. Không bán dữ liệu. Không giật tít.
Thay vào đó, chúng tôi có:

  • Những bài viết chuyên sâu, dễ đọc
  • Tài liệu chọn lọc, minh bạch nguồn gốc
  • Niềm đam mê bất tận với sự thật lịch sử
DONATE

Toàn bộ tiền donate sẽ được dùng để:

  • Nghiên cứu – Mua tài liệu, thuê dịch giả, kỹ thuật viên.
  • Duy trì máy chủ và bảo mật website
  • Mở rộng nội dung – Thêm nhiều chủ đề, bản đồ, minh họa

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM