Lịch Sử Việt Nam

Nghi Biểu Hầu Nguyễn Cư Trinh: Văn phủ và võ trị

Nguyễn Cư Trinh được xem là “văn võ song toàn”: giỏi văn để phủ dụ, khuyên can, dùng võ để khai mở đất đai, giữ gìn biên cương

nguyen cu trinh la ai

Tác giả bài gốc: Đỗ Kim Trường

Blog Lịch Sử tổng hợp và biên soạn

Bài viết dưới đây điểm lại những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp của Nghi Biểu hầu Nguyễn Cư Trinh – một nhân vật lịch sử tiêu biểu thời các chúa Nguyễn. Ông được biết đến với phẩm chất văn phủ – võ trị, cùng những đóng góp to lớn trong quá trình mở mang, bảo vệ bờ cõi, ổn định an dân và để lại nhiều trước tác có giá trị văn chương, văn hóa. Bài viết tóm lược dựa trên các sử liệu chính thống và một số nghiên cứu liên quan, với mong muốn giúp bạn đọc có thêm tư liệu tham khảo về một danh nhân lịch sử của dân tộc.

Xuất thân của Nguyễn Cư Trinh

Nguyễn Cư Trinh (1716–1767) sinh năm Bính Thân, là con út của danh sĩ Nguyễn Đăng Đệ (tự Lã Nghi, hiệu Đạm Am). Tổ tiên của ông vốn họ Trịnh, quê huyện Thiên Lộc, Nghệ An. Đến đời ông tổ sáu đời là Trịnh Cam (làm Thượng thư bộ Binh đời Lê) tránh vào Thuận Hóa, dòng họ đổi từ họ Trịnh sang họ Nguyễn. Con cháu sau này nhập tịch tại xã An Hòa, huyện Hương Trà (nay thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế).

Từ nhỏ, Nguyễn Cư Trinh nổi tiếng thông minh, 11 tuổi đã biết làm văn. Năm Canh Thân (1740), ông dự khoa thi Hương và đỗ Hương tiến (tức Cử nhân), được bổ nhiệm làm Tri phủ Triệu Phong. Sau đó, ông được thăng lên Văn chức – một cơ quan tương đương Hàn lâm viện thời bấy giờ ở Đàng Trong.

Tạo hình Nguyễn Cư Trinh

Năm Canh Ngọ (1750), triều đình cử ông làm Tuần phủ Quảng Ngãi, tước Nghi Biểu hầu. Tại đây, ông đã dẹp được cuộc nổi dậy của người Hré ở Đá Vách, ổn định an ninh biên giới miền Tây Quảng Ngãi. Năm Tân Mùi (1751), ông dâng sớ tấu trình thực trạng đời sống nhân dân và bốn điều trần về tệ quan lại, lậu đinh, nhưng không được chúa Nguyễn hồi đáp.

Năm Quý Dậu (1753), Nguyễn Cư Trinh được triệu về làm Ký lục dinh Bố Chính. Cùng năm, vì vua Chân Lạp (Nặc Nguyên) ức hiếp người Côn Man (người Chăm ở đất Chân Lạp), ông được giao nhiệm vụ làm Tham mưu cho Thống suất Thiện Chính, chỉ huy quân năm dinh Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ tiến đánh Chân Lạp. Qua nhiều chiến dịch, Chân Lạp dâng hai phủ Tầm Bôn (Tân An), Lôi Lạp (Gò Công), rồi tiếp tục dâng đất Tầm Phong Long (Châu Đốc, Tân Châu, Sa Đéc) để tạ ơn chúa Nguyễn. Ông được giao quản lý các vùng đất mới này, đồng thời đề xuất dời trị sở dinh Long Hồ đến xứ Tầm Bào (Vĩnh Long ngày nay) và đặt ba đạo Đông Khẩu, Tân Châu, Châu Đốc để trấn giữ.

Năm Ất Dậu (1765), ông được triệu về kinh thăng Lại bộ kiêm Tào vận sứ. Hai năm sau (1767), ông qua đời, hưởng dương 51 tuổi. Định vương truy phong cho ông các mỹ tự cao quý, ghi nhận công lao. Về sau, triều Minh Mạng (năm 1839) lại truy tặng ông tước Văn Minh hầu, cho thờ tại Thái Miếu.

Bên cạnh sự nghiệp chính trị – quân sự, ông còn nổi tiếng giỏi thơ văn, để lại các tác phẩm như truyện Nôm Sãi Vãi, tập thơ Đạm Am thi tập, Quảng Ngãi thập nhị cảnh, loạt bài họa Hà Tiên thập vịnh,… Trong đó, Sãi Vãi được xem như sáng tác có ý nghĩa quan trọng về mặt tư tưởng, khích lệ tướng sĩ, bồi đắp tinh thần chống loạn, đồng thời giáo hóa nhân dân.

Văn phủ và võ trị

“Văn phủ – võ trị” (文撫武治) là cụm từ mang hàm ý: dùng văn chương để vỗ về, giáo hóa; đồng thời biết vận dụng quân sự để trị quốc, an dân. Ở Nguyễn Cư Trinh, phẩm chất này được toát lên qua rất nhiều hoạt động. Sử liệu ghi nhận ông không chỉ giỏi soạn thảo văn từ, tấu sớ, truyền lệnh mà còn lập nhiều võ công, góp phần mở rộng, xác lập chủ quyền trên vùng đất Nam bộ.

Văn Phủ: Dùng văn chương để an dân

1. Soạn văn thư giúp Chúa Nguyễn

Ngay sau khi đỗ Hương tiến, ông được bổ nhiệm làm Tri phủ Triệu Phong rồi thăng lên Văn chức. Các tài liệu như Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện hay Đại Nam nhất thống chí đều xác nhận vai trò “Văn chức” của ông. “Văn chức” trong bối cảnh Đàng Trong tương đương Hàn lâm viện, vừa là danh xưng một cơ quan, vừa là một chức quan cố vấn chuyên soạn thảo văn thư cho chúa.

Chính nhờ năng lực viết lách sắc sảo, khéo léo, ông được chúa tin tưởng giao việc thảo thư từ lệnh quan trọng, trong đó phải kể đến bức thư khước từ ý định “mượn đường” của chúa Trịnh nhằm đánh Trấn Ninh. Chỉ một lá thư của ông đã khiến họ Trịnh phải bỏ hẳn kế hoạch thâm nhập Đàng Trong, giữ được thế cân bằng chính trị giữa hai miền.

2. “Truyện Sãi Vãi”: Dùng văn chương dẹp loạn Đá Vách

Năm Canh Ngọ (1750), người Hré (man Thạch Bích) ở Quảng Ngãi nổi dậy vì sưu cao thuế nặng, địa hình vùng núi Đá Vách hiểm trở khiến các quan quân chúa Nguyễn không cách nào dẹp yên. Nguyễn Cư Trinh được giao làm Tuần phủ Quảng Ngãi, mang quân đến vừa thảo phạt, vừa phủ dụ. Ông khéo léo dùng văn chương với tác phẩm Sãi Vãi (680 câu, theo nhiều tài liệu) để cảnh tỉnh, khuyên răn, khiến thủ lĩnh người Hré và đồng bào của họ hiểu rõ chính – tà, dần dần ra hàng. Sau đó, ông còn cho lập đồn lũy phòng thủ, đặt điếm canh, mở đồn điền, an dân, đảm bảo quân Hré không “tái nổi loạn” nữa.

3. Tấu sớ chấn chỉnh việc nước

Năm Tân Mùi (1751), Nguyễn Cư Trinh dâng bốn điều trần, nêu rõ nỗi cơ cực của dân: nặng nề về thuế khóa (nuôi lính, nuôi voi, nộp tiền án), tệ tham nhũng của phủ huyện, cảnh dân nghèo xiêu dạt, không có chế độ khoan giảm hợp lý, cùng tình trạng “lạm quyền” của người được sai phái. Ông kiến nghị triều đình:

  • Giao phủ huyện thu thuế để tránh phiền nhiễu.
  • Định chế độ thưởng phạt nghiêm minh đối với quan lại.
  • Rà soát “dân lậu” để chia đẳng hạng, cho miễn giảm thuế người khốn khó.
  • Cấp giấy công lệnh rõ ràng, trị tội kẻ mạo danh, nhiễu dân.

lời lẽ rất mạnh mẽ, thể hiện tấm lòng “khảng khái”, tờ sớ không được chúa Nguyễn phúc đáp, có lẽ vì thời bấy giờ chúa Phúc Khoát cùng quan lại tiêu pha xa xỉ, thu thuế ngày càng nặng. Tuy nhiên, giá trị từ tờ sớ ấy vẫn được hậu thế đánh giá cao, cho thấy ông “có tài sửa sang cứu chữa”, luôn nặng lòng với an sinh của dân.

4. Sáng tác thơ ca

Ông có Đạm Am thi tập với nhiều bài thơ, trong đó Dạ ẩm hé lộ nỗi niềm hoài bão. Tại Quảng Ngãi, ông sáng tác Quảng Ngãi thập nhị cảnh ca ngợi mười hai cảnh đẹp. Đặc biệt, hình ảnh núi Thiên Ấn soi bóng sông Trà Khúc được ông ví như “Ấn trời đóng trên sông” (Thiên Ấn niêm hà). Tại Hà Tiên, ông từng xướng họa thơ trong “Hà Tiên thập vịnh” cùng Tao đàn Chiêu Anh Các của Mạc Thiên Tứ, làm nên một dấu ấn quan trọng đối với sự phát triển văn học Nam bộ.

Chính những điều trên đã thể hiện trọn vẹn năng lực “văn phủ” của ông: dùng văn chương để thuyết phục, giáo hóa, truyền tải tư tưởng cải cách, đồng thời ghi lại vẻ đẹp thiên nhiên đất nước, hun đúc tinh thần gắn bó quê hương.

Võ Trị: Bảo vệ bờ cõi

1. Dẹp loạn “Mọi Đá Vách”

Cuộc nổi dậy của người Hré (man Thạch Bích) ở Quảng Ngãi, như đã nói, trở thành “bài toán khó” cho triều đình. Khi ông được cử làm Tuần phủ, ngoài việc dùng “văn” (truyện Sãi Vãi) khuyên bảo, ông còn cầm quân đắp lũy, mở đường, đặt đồn binh để giữ vững vùng biên. Người Hré sau đó yên phận canh tác, trả lại trật tự an ninh cho phủ Quảng Ngãi. Đây là dấu ấn đầu tiên về võ công của Nghi Biểu hầu.

2. Chinh phạt Chân Lạp

Giữa thế kỷ XVIII, Chân Lạp rối ren, mâu thuẫn nội bộ giữa các phe thân Việt – thân Xiêm, thường xuyên xung đột. Vua Nặc Nguyên ức hiếp người Côn Man (người Chăm xiêu dạt sang Chân Lạp). Triều Nguyễn quyết định can thiệp quân sự. Năm Quý Dậu (1753), chúa Nguyễn cử Thiện Chính làm Thống suất, Nguyễn Cư Trinh làm Tham mưu, chỉ huy quân năm dinh (Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ) đánh Chân Lạp. Nhờ tài thao lược, ông thu phục được 5000 người Côn Man, tận dụng họ làm “hướng đạo” (kế “dĩ man công man”), liên tiếp giành thắng lợi. Kết quả, Chân Lạp phải dâng hai phủ Tầm Bôn, Lôi Lạp (năm 1756).

Năm Đinh Sửu (1757), chúa Nguyễn sai Trương Phước Du giúp Nặc Tôn giành lại ngôi vua; Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (Châu Đốc, Tân Châu, Sa Đéc…). Ông tâu xin dời dinh Long Hồ đến Tầm Bào, đặt ba đạo Đông Khẩu, Tân Châu, Châu Đốc để chính thức quản lý vùng đất mới này. Nhờ đó, việc mở mang Tây Nam bộ về cơ bản được hoàn tất, thiết lập nền tảng cho vùng Gia Định (Nam bộ) sau này.

3. Ổn định trị an, bảo vệ thương thuyền

Đất Gia Định sông rạch chằng chịt, thuyền buôn thường bị cướp biển lộng hành. Ông đưa ra quy định “đăng kiểm thủy lộ”, bắt mọi thuyền phải khắc tên chủ và nơi xuất xứ để kiểm soát, tách bạch tàu buôn – tàu cướp. Kẻ gian không còn chỗ ẩn nấp, nạn trộm cướp giảm rõ rệt, giúp giao thương an toàn hơn.

4. Không khuất phục quyền thần Trương Phúc Loan

Về kinh (1765) làm Lại bộ kiêm Tào vận sứ, ông đối diện với thực tế quyền thần Trương Phúc Loan (quốc phó) thao túng triều chính, tham lam bòn rút của công. Nhiều quan phải đến tư dinh Loan để nhận lệnh, riêng Nguyễn Cư Trinh dám lớn tiếng phản đối, mắng thẳng “Loạn thiên hạ, tất là người này!” Khiến Loan phải kiêng dè, không dám làm hại ông. Đây cũng được xem là thể hiện rõ khí chất “võ trị” – kiên cường, không sợ uy quyền.

5. Hạn chế cá nhân

Bên cạnh những công lao to lớn, ông cũng bị hậu thế phê bình về chuyện “tâu hặc Thiện Chính” trong vụ người Côn Man bị quân Chân Lạp đánh úp. Thực tế Thiện Chính không tiếp ứng được vì đường chằm rừng trở ngại. Tuy nhiên, ông lại dâng sớ cho rằng Thiện Chính “bỏ lỡ cơ hội, bỏ rơi dân mới quy phụ,” khiến Thiện Chính bị giáng cấp. Chi tiết này làm người đời sau ít nhiều chê trách.

Dù vậy, nhìn tổng thể, đóng góp “võ trị” của ông là rất to lớn: dẹp man Thạch Bích, chinh phạt Chân Lạp, mở mang đất Tây Nam bộ, đảm bảo an ninh, ổn định sinh kế cho dân. Những thành quả này được triều Nguyễn và chính sử ghi nhận qua các danh hiệu tôn vinh.

Kết

Nghi Biểu hầu Nguyễn Cư Trinh là nhân vật nổi bật của lịch sử Việt Nam thế kỷ XVIII, giai đoạn các chúa Nguyễn còn trị vì ở Đàng Trong. Ông được xem là hình mẫu “văn võ song toàn”: giỏi văn để phủ dụ, khuyên can, chấn chỉnh chính sự, đồng thời am tường binh pháp, khai mở đất đai, giữ gìn biên cương. Dù còn vài chi tiết gây tranh luận, những công lao hiển nhiên của ông vẫn được đánh giá rất cao.

Lăng mộ của ông hiện tọa lạc tại xã Lộc Sơn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là mộ tam táng (chôn chung ông cùng hai phu nhân), đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia năm 1999. Tên ông cũng được đặt cho nhiều đường phố ở Việt Nam, như một cách tri ân và ghi nhận công lao của bậc danh thần có đức “văn phủ,” tài “võ trị” này.

Với tầm vóc và đóng góp của Nghi Biểu hầu, nghiên cứu về nhân vật lịch sử này vẫn còn nhiều góc khuất, đòi hỏi các hội thảo khoa học, các công trình chuyên sâu để tiếp tục bổ sung, làm rõ, đồng thời phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp mà ông đã để lại cho dân tộc.

Rate this post

cards
Powered by paypal

Đăng ký theo dõi trang để nhận thông báo bài viết mới hàng tuần

ĐỌC THÊM

Kim Lưu
Chào mọi người, mình là Kim Lưu, người lập Blog Lịch Sử này. Hy vọng blog cung cấp cho các bạn nhiều kiến thức hữu ích và thú vị.