Lịch Sử Việt Nam

Người Việt nhìn phương Tây qua hồi ký Phạm Phú Thứ

Những ghi chép của Phi-li-phê Bỉnh, Phạm Phú Thứ đã hé lộ bức tranh giao thoa Đông – Tây nhiều khúc quanh khó lường.

tu vien thanh phao lo nguyen truong to

Bài viết này điểm lại một số ghi chép và trải nghiệm của người Việt xưa, cùng các nhận định của họ về Tây phương. Qua đó, ta thấy rõ sự khác biệt văn hóa, những ngộ nhận ban đầu, cũng như cách thức tiếp cận của các trí thức nước ta khi phải “mở cửa” trước làn sóng xâm nhập của phương Tây. Bài viết được chắt lọc từ các tư liệu hồi ký, thư tịch, đối chiếu với một số tài liệu liên quan đến các nhân vật lịch sử như Phi-li-phê Bỉnh, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Bùi Viện…

Các tác phẩm sớm về Việt Nam của người Tây

Từ thế kỷ XVII, đã có nhiều tư liệu mô tả khá tường tận về nước ta, phần lớn do các giáo sĩ hoặc người lai Âu – Á viết. Tiêu biểu:

  • Năm 1617, C. Borri (người Ý) viết về Đàng Trong: Relation de la Nouvelle Mission des Pères de la Compagnie de Jésus au Royaume de la Cochinchine.
  • Năm 1651, A. de Rhodes mô tả Đàng Ngoài: Histoire du Royaume de Tonquin.
  • Năm 1685, S. Baron (lai Hà Lan, sinh trưởng ở Kẻ Chợ – Thăng Long) viết Description du Royaume de Tonquin, giới thiệu Đàng Ngoài.
  • Năm 1867, Michel Đức Chaigneau (lai Pháp, con của Jean-Baptiste Chaigneau – đại thần triều Gia Long) viết Souvenirs de Hué, giới thiệu Huế.

Những tài liệu trên thường ghi chép tỉ mỉ theo lối quan sát của Tây Âu, dù có những nhận xét sai lầm, nhưng nhìn chung đã hé mở cho ta thấy những mảng quá khứ khá sát với sự thật. Chẳng hạn, họ mô tả phong tục, xã hội, cảnh quan, đời sống thường nhật của người Việt thời bấy giờ, giúp chúng ta hiểu một phần diện mạo dân tộc trong giai đoạn “mở cửa” ban đầu.

Nhận xét của người Việt xưa về Tây phương

Ở chiều ngược lại, khi người Tây “đến” Việt Nam, cha ông ta ban đầu khó tránh những ngộ nhận. Ta từng bắt gặp lời tả trong Đại Nam Việt Quấc triều Sử ký (có đoạn cho rằng người Pháp sở hữu “cửa son chói lói, lầu vàng oai nghi” và khi Bá Đa Lộc vào bệ kiến “quốc trưởng” Pháp thì quỳ lạy). Trong cuộc chiến chống Pháp, dân gian còn đồn “Tây không có đầu gối, rải ổi xanh ra đường nó dẫm phải ngã là bắt được ngay” – khả năng vì thấy lính Pháp đi ủng cao nên nhầm tưởng họ không gập được chân.

Những ngộ nhận đó phản ánh sự thiếu thông tin của người Việt, nhất là những ai chưa từng bước chân ra nước ngoài. Cơ hội nhìn thấy “người Tây”, tiếp xúc hoặc học tập ở trời Âu hầu như rất hiếm, chỉ hoặc đi du học do giáo sĩ gửi, hoặc được triều đình cử đi quan sát.

Đơn cử, năm 1839, vua Minh Mạng sai một phái đoàn bán chính thức sang châu Âu gồm hai đại thần (Tôn Thất Thường/Liễu và Trần Viết Xương) cùng hai thông ngôn trẻ (Võ Dũng giỏi tiếng Pháp và một người nữa thạo tiếng Anh). Mục đích là “bày tỏ tình hữu nghị, thăm xưởng đóng tàu, nghiên cứu binh khí”, nhưng vì không có quốc thư nên họ không được Pháp hoàng Louis Philippe tiếp đón chính thức, chỉ được yết kiến Tổng trưởng Bộ Hàng Hải. Các nhà báo Pháp thời đó mô tả khá thú vị: nào là “răng đen nhuộm bằng cao chanh,” “áo dài chấm gót thêu chim,” “mũ đen chóp đính quả cầu nhỏ bằng bạc,” “đem theo tiền vàng hình thoi mực tàu,” và “dùng bàn tính rất nhanh,” hễ thấy điều gì mới lạ liền rút bảng ghi chép ngay giữa đường.

Cuộc đụng độ văn hóa này khiến đôi bên tò mò, báo chí châu Âu lúc đó nhìn các quan Việt Nam như những người đến từ xứ sở xa xôi, trang phục độc đáo, cách sinh hoạt đặc biệt, khác hẳn phong cách Tây.

Những chuyến đi “Tây” và các ghi chép hồi ký

Trong lịch sử Việt Nam, chúng ta có thể thấy rõ hai loại nhân vật từng đặt chân đến châu Âu:

  1. Các linh mục hoặc người theo đạo (do Dòng Tên hoặc giáo sĩ gửi đi).
  2. Quan lại triều đình hoặc phái đoàn do triều đình cử.

Trong bài viết này, nổi bật nhất là các ghi chép của Phi-li-phê Bỉnh (linh mục Dòng Tên) và Phạm Phú Thứ (một nho sĩ làm đại thần triều Nguyễn). Bên cạnh đó, Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Trường Tộ cũng để lại nhiều nhận xét sắc sảo về Tây phương, nhưng tư liệu về họ có phần phân tán, khó sưu tập đầy đủ.

Nhìn chung, các hồi ký thể hiện cảm nhận đích thực của người Việt đầu tiên đặt chân đến châu Âu: về ẩm thực, trang phục, nếp sinh hoạt, y tế, nhà cửa, đường sá, kỹ nghệ, quân sự… Chính những ghi chép này góp phần làm sáng tỏ hơn những gì mà đương thời vốn chỉ đồn đại hoặc ước đoán một cách thiếu căn cứ.

Phi-li-phê Bỉnh và “Sách sổ sang chép các việc”

Tiểu sử

Phi-li-phê Bỉnh (1759-1830?), quê ở Hải Dương, là linh mục Dòng Tên (Compagnie de Jésus). Ông đứng đầu một phái đoàn linh mục người Việt sang Bồ Đào Nha năm 1796 để xin vua Bồ can thiệp với Tòa Thánh La Mã bãi lệnh đóng cửa Dòng Tên. Từ đó, ông sống lưu vong ở Lisbonne cho đến khi qua đời, tổng cộng hơn 30 năm xa xứ. Trong thời gian này, ông viết 21 bộ sách, bao gồm một số tài liệu về đạo và những tập ghi chép quan trọng, như Sách tự vị tiếng nước ta cùng tiếng nước người (1797), Truyện Anam đàng ngoài (cuốn nhất), Truyện Anam đàng trong (cuốn nhị)…

Đặc biệt, “Sách sổ sang chép các việc” hoàn thành năm 1822 (có phần ghi đến 1830) là quyển hồi ký tả tỉ mỉ đời sống và tổ chức xã hội Bồ Đào Nha cuối thế kỷ 18 – đầu thế kỷ 19, kèm theo nhiều so sánh với xã hội Việt Nam.

Những điểm chính trong “Sách sổ sang chép các việc”

  • Chuyện ăn uống, sinh hoạt thường ngày: Người Bồ không bao giờ uống nước lã, trà thì bỏ đường. Thịt bò, gà được chế biến khác ta, lại ăn rau sống, có món jambon, dồi. Đặc biệt, mỗi người ăn tiệc tới 15-20 đĩa, lễ lớn thì mỗi người nửa con gà.
  • Phong tục: Nam nữ ăn chung với linh mục, trong khi người Việt (Đàng Ngoài) thì “cha ngồi với con trai, mẹ ngồi với con gái,” vợ chồng đôi khi không ngồi ăn chung. Chảo nấu ăn lòng phẳng, bếp cao để đứng nấu đỡ mệt.
  • Vệ sinh: Quần áo giặt hai lần mỗi tuần, giường trải ga trắng tinh. Trẻ em phương Tây không mớm, phụ nữ sinh con không nằm giường mà đi bộ cho mau “dở dạ.”
  • Xã hội, tổ chức: Trẻ em 5-6 tuổi đi học, thầy do nhà nước trả lương. Quân lính được cấp quần áo, lương thực, khi già yếu vẫn được phát lương. Thuyền chở thư bưu chính chạy ngày đêm, mưa gió không nghỉ. Có hình thức thu thuế cho những người bán hàng rong, cả người bán hạt dẻ cũng phải nộp. Rất nhiều chi tiết khác như sổ số, nhà chứa thư… đều được ông ghi lại cẩn thận.

Chính nhờ tuân thủ cách ghi chép sự vụ một cách tỉ mỉ, Phi-li-phê Bỉnh đã để lại cho ta cái nhìn hiếm hoi về châu Âu thời bấy giờ, qua con mắt của một người Việt tha hương. Dĩ nhiên, vẫn có những chỗ ông nhắc lại sai lạc về lịch sử Việt Nam, hoặc bày tỏ thiên kiến về đạo giáo. Tuy vậy, các phần tả thực về sinh hoạt đời thường và chữ Quốc ngữ giai đoạn hình thành cuối thế kỷ 18 – đầu thế kỷ 19 của ông rất đáng trân trọng.

Phạm Phú Thứ và “Tây hành nhật ký”

Phạm Phú Thứ (1821-1882), hiệu Trúc Đường, biệt hiệu Giá Viên, quê ở Quảng Nam. Năm 1843, ông đỗ Tiến sĩ, rồi nhiều lần ra làm quan dưới triều Tự Đức, kinh qua các chức Kinh Diên Khởi Cư Chú, Án sát Thanh Hóa, Thị lang, Tả Tham tri bộ Lại, Hiệp biện Đại học sĩ…

Thời điểm Gia Định rơi vào tay Pháp (1862), triều đình cử ông cùng Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp thương thảo hòa ước. Sau đó (1863-1864), ông được cử làm Phó sứ, cùng Phan Thanh Giản (Chánh sứ) và Ngụy Khắc Đản (Bồi sứ) sang Pháp tiếp tục đàm phán xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông. Dù nỗ lực nhưng họ thất bại trong việc lấy lại lãnh thổ. Tuy vậy, Phạm Phú Thứ đã ghi chép tỉ mỉ hành trình đi Tây suốt hơn 8 tháng trong tác phẩm “Tây hành nhật ký,” nộp lên vua Tự Đức khi về nước.

Nội dung chính “Tây hành nhật ký”

“Tây hành nhật ký” (còn gọi “Giá Viên biệt lục,” “Tây phù nhật ký”) chép những điều mắt thấy tai nghe: từ lộ trình (từ Sài Gòn, băng Ấn Độ Dương, Trung Đông, châu Âu…) đến những quan sát về phong tục, kỹ nghệ, quân sự, tôn giáo ở các nước như Ai Cập, Pháp, Tây Ban Nha, Ý… Ông mô tả rất nhiều phát kiến thời bấy giờ khiến người Việt kinh ngạc:

  • Đời sống hằng ngày: Người Tây ăn tiệc đặt 5-7 cái cốc, muỗng nĩa mạ vàng, đĩa sứ viền vàng. Cỗ bàn thường có rượu vang, sâm panh… Nam nữ cùng ngồi ăn vì họ đề cao bình đẳng giới. Phố phường (đặc biệt là Paris) cực kỳ sạch sẽ, đèn hơi đốt sáng trưng, đường đá lát nhẵn, xe ngựa đi như mắc cửi.
  • Kỹ thuật: Có ống nước dẫn vào nhà, ống dẫn khí đốt, thậm chí có sân khấu, hí trường trình diễn tuồng. Người phương Tây dùng tàu hỏa, có lò sưởi nước nóng bọc nhung đỏ để sưởi chân. Vườn bách thú, công viên rộng rãi, vòi phun nước khắp nơi.
  • Tổ chức xã hội: Có quốc hội (Hạ viện) bầu ra nghị sĩ 6 năm một lần, bệnh viện có các nữ tu chăm sóc, nghĩa trang sạch sẽ để người dân tưởng niệm người thân. Giao thông thư tín nhanh chóng, mỗi lá thư trả cước phí tùy xa gần.

Những quan sát đa dạng này cho thấy người Việt “mở to mắt” trước sự phồn thịnh, tiện nghi và quy củ của Tây phương. Và Phạm Phú Thứ không dừng ở việc “ngắm nghía,” mà ngay khi về nước, ông dâng 11 lá sớ xin cải cách. Trong suốt thời gian làm Thượng thư Bộ Hộ, Tổng đốc Hải Yên, Tổng lý Nha Thương chính, ông tìm cách mở mang trường dạy chữ Pháp, in sách khoa học kỹ thuật (như “Bác vật tân biên,” “Hàng hải kim châm,” “Vạn quốc công pháp”…), thậm chí phát minh “xe trâu” (dựa trên kiểu học được ở Ai Cập) để tăng hiệu suất tưới tiêu.

Tuy vậy, ông vẫn là một nho sĩ đề cao đạo đức Nho giáo, coi “tứ đoan” (nhân, nghĩa, lễ, trí) làm gốc. Do đó, nhiều dự án canh tân về quân sự, ngoại giao mà ông đề xướng bị cản trở trong bối cảnh triều đình rối ren, thiếu sự đồng thuận. Nhưng cũng chính ông là người “làm gương” về ý thức học hỏi tân tiến, góp phần không nhỏ mở đường cho phong trào cải cách nửa sau thế kỷ 19.

Đọc thêm:

Phạm Phú Thứ và các nhân vật xuất ngoại khác

Ngoài Phạm Phú Thứ, ta cũng có những gương mặt trí thức cùng thời với hoài bão canh tân đất nước:

1. Trương Vĩnh Ký (1837-1898)

  • Ông là một trong những nhà ngôn ngữ tài hoa nhất nước ta, biết tới 27 thứ tiếng Âu Á. Đi cùng phái đoàn Phan Thanh Giản – Phạm Phú Thứ sang Pháp năm 1863-1864 với tư cách thông ngôn.
  • Khác với Phạm Phú Thứ là quan triều đình, Trương Vĩnh Ký trên danh nghĩa làm việc cho soái phủ Pháp. Ông thiên về phổ biến chữ Quốc ngữ, viết báo, biên soạn sách vở về lịch sử, văn hóa Việt Nam cho người Pháp đọc, nhưng lại ít phổ biến văn minh Tây phương ngược lại cho người Việt.
  • Nhiều nhận định cho rằng sự nghiệp văn hóa của Trương Vĩnh Ký dù đồ sộ nhưng chỉ “giúp” người Pháp hiểu ta, hơn là “giúp” người ta tiếp cận nền văn minh châu Âu. Bản thân ông cũng có lúc tỏ ra “tiến thoái lưỡng nan” khi bị hoàn cảnh chính trị chi phối, tới cuối đời làm bài thơ “Tuyệt mệnh” đầy trăn trở.

2. Nguyễn Trường Tộ (1830-1871)

  • Xuất thân giáo dân, từng làm thông ngôn cho Pháp nhưng sớm từ chức vì nhận ra “mưu toan” xâm lược.
  • Ông dâng 58 bản điều trần, nêu các kế sách canh tân về đủ mặt: giáo dục, binh bị, khai mỏ, ngoại giao, thuế khóa… thậm chí khuyên dùng chữ Nôm làm văn tự chính thức thay cho Hán tự.
  • So với Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ có chung chủ trương hòa hoãn, cần củng cố nội lực trước, nhưng ông hiểu sâu hơn về dã tâm Pháp, khẳng định “Pháp đã đến là không đi,” không thể “bồi thường” mà họ rút về. Dù cũng nghiêng về “tôn quân,” nhưng mục đích của ông là để giữ ổn định, tránh nội loạn.

3. Bùi Viện (1839-1878)

  • Có tiếng là người thực học, bỏ qua lối “từ chương.” Từng được cử đi sang Hoa Kỳ để cầu viện, nhưng không thành.
  • Ông góp công lớn trong việc thành lập đội “Tuần dương quân” bảo vệ bờ biển, dẹp hải phỉ, đồng thời cũng bị ghi công – ghi tội lẫn lộn về chuyện biến bến Ninh Hải thành thương cảng Hải Phòng (có sách bảo là công Bùi Viện, có sách ghi do Phạm Phú Thứ cầm trịch).
  • Dù ngắn ngủi, sự nghiệp Bùi Viện phản ánh một nỗ lực “hiện đại hóa” hải quân, thúc đẩy thương mại, mong cứu vãn tình hình, nhưng ông mất sớm (1878), để lại nhiều ẩn khuất lịch sử.

    Câu hỏi “Ai là người đưa Ninh Hải thành Hải Phòng?” cũng thể hiện sự phức tạp trong sử liệu. Có tài liệu nói Phạm Phú Thứ (với cương vị Tổng đốc Hải Yên kiêm Tổng lý Nha Thương chính, 1874-1880) là chủ xướng. Nguồn khác (Phan Trần Chúc, Bảo Vân…) lại quả quyết đó là công Bùi Viện. Thực tế, khả năng cao là Phạm Phú Thứ chỉ đạo chung, Bùi Viện và một số quan khác trực tiếp thi công, vì Bùi Viện mang chức Tham biện Thương chính và Quản đốc Nha Tuần tải, vẫn thuộc quyền điều phối của Tổng đốc Phạm Phú Thứ. Khó có thể tách bạch “chỉ mình ai” bởi đó là công cuộc lớn mang tính tập thể.

    Kết luận

    Những ghi chép của Phi-li-phê Bỉnh, Phạm Phú Thứ, hay các công trình của Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Bùi Viện… đã hé lộ bức tranh giao thoa Đông – Tây nhiều khúc quanh khó lường. Dù người Việt hay người Tây, đôi bên thuở ban đầu đều có những tò mò, ngộ nhận. Tuy thế, một số trí thức Việt thời cận đại đã mạnh dạn tiếp thu tinh hoa của nền văn minh Âu châu, ghi lại tường tận qua nhật ký, điều trần, nhằm thuyết phục triều đình cải cách, duy tân, cứu nước.

    Nhìn lại, nếu không có những “bút chứng” ấy, chúng ta khó tưởng tượng rõ thái độ, cảm xúc, và hành động của cha ông trước thềm biến động lịch sử. Chúng cũng cho thấy khát vọng cháy bỏng muốn canh tân, vươn lên của người Việt, dù thành hay bại phần lớn còn tùy vào hoàn cảnh chính trị và ý chí tập thể. Chính từ di sản đó, hậu thế mới hiểu thêm bài học về thời cuộc: muốn sánh vai với thế giới, không thể đóng cửa bó gối, nhưng đồng thời phải đủ tỉnh táo, cứng rắn về quốc gia, dân tộc.

    Rate this post

    Chúng tôi không có quảng cáo gây phiền nhiễu. Không bán dữ liệu. Không giật tít.
    Thay vào đó, chúng tôi có:

    • Những bài viết chuyên sâu, dễ đọc
    • Tài liệu chọn lọc, minh bạch nguồn gốc
    • Niềm đam mê bất tận với sự thật lịch sử
    DONATE

    Toàn bộ tiền donate sẽ được dùng để:

    • Nghiên cứu – Mua tài liệu, thuê dịch giả, kỹ thuật viên.
    • Duy trì máy chủ và bảo mật website
    • Mở rộng nội dung – Thêm nhiều chủ đề, bản đồ, minh họa

    THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

    ĐỌC THÊM