Lịch Sử Việt Nam

Nguyễn Công Nhàn – Bậc trí dũng song toàn triều Nguyễn

Bài viết này khái quát thân thế, sự nghiệp của “Hùng dũng tướng” Nguyễn Công Nhàn – người có nhiều công lao trong việc dẹp nội loạn

Nguồn: Biên Soạn
Hùng dũng tướng” Nguyễn Công Nhàn

Bài viết này khái quát thân thế, sự nghiệp của “Hùng dũng tướng” Nguyễn Công Nhàn – người có nhiều công lao trong việc dẹp nội loạn, chống ngoại xâm, khai kênh mở đất ở Tây Nam bộ dưới triều Nguyễn. Hy vọng qua đây, bạn đọc sẽ có thêm góc nhìn về một danh tướng tuy ít được sử sách nhắc đến, nhưng lại để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử Việt Nam.

Vài nét về tiểu sử Nguyễn Công Nhàn

Tài liệu về Nguyễn Công Nhàn rất hiếm, hầu như không ghi rõ năm sinh, năm mất. Theo quốc sử triều Nguyễn, ông là người Biên Hòa, nhưng ngôi làng gốc không xác định được do nơi này đã bị nhượng cho Pháp theo Hiệp ước Nhâm Tuất (1862). Từ đó, Biên Hòa nằm dưới quyền tổ chức cai trị của thực dân Pháp.

Cha ông là quan Khâm sai Chánh quản Đồ gia Bắc thành. Từ nhỏ, Nguyễn Công Nhàn đã bộc lộ năng khiếu võ nghệ, được đưa vào trường Anh Danh ở kinh đô Huế (ngôi trường chuyên đào tạo võ quan). Sau khi tốt nghiệp, ông sớm chứng tỏ tài năng qua hàng loạt chiến công: dẹp các cuộc bạo loạn của tộc người thiểu số vùng Tây Nguyên, chống quân Xiêm và Miên xâm lấn biên giới Tây Nam, góp phần bảo vệ Trấn Tây thành (Chân Lạp). Bên cạnh đó, ông còn chủ trương đào kênh Vĩnh An Hà ở An Giang, giúp kết nối Tiền Giang với Hậu Giang, mang lại lợi ích cả về kinh tế lẫn quân sự.

Trong suốt ba triều vua Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883), Nguyễn Công Nhàn liên tục được khen thưởng, thăng các chức vụ quan trọng. Đáng chú ý, ông được ban tấm bài vàng khắc bốn chữ “Hùng dũng tướng” – một vinh dự hiếm hoi thể hiện rõ sự ghi nhận của triều đình dành cho người có công đánh dẹp giặc ngoại xâm và nội loạn.

Năm 1858, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Sau khi thất bại ở Đà Nẵng, quân Pháp chuyển hướng đánh Gia Định (1859). Lúc này, triều đình Huế cử ông làm Đề đốc quân vụ hiệp cùng Nguyễn Tri Phương phòng thủ. Nhưng vì nhiều nguyên nhân, thành Gia Định mất vào tay Pháp, ông được đổi sang làm Hộ lý Tây đô An Giang.

Năm 1861, quân Pháp đánh Định Tường, Nguyễn Công Nhàn đang giữ chức Tổng đốc đã tổ chức quân binh kháng cự. Tháng 12 cùng năm, Biên Hòa tiếp tục thất thủ. Triều đình Huế bắt đầu ký các hiệp ước cắt nhượng đất cho Pháp và buộc giải tán lực lượng kháng chiến ở Nam kỳ lục tỉnh. Ông nhận lệnh đổi sang trấn nhậm Vĩnh Yên, nhưng không tuân chỉ mà vẫn ở lại chiêu tập nghĩa dũng tiếp tục đánh Pháp. Khi lực lượng hao mòn, ông rút về vùng Đồng Tháp Mười – Tiền Giang, rồi cố thủ tại Long Hưng (Nước Xoáy). Cuối cùng, Nguyễn Công Nhàn qua đời ở Long Hưng. Hiện mộ phần của ông đặt tại ấp Hưng Thành Tây, xã Long Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.

Nguyễn Công Nhàn, bậc trí dũng song toàn triều Nguyễn

Nói đến phẩm chất trí của Nguyễn Công Nhàn, mặc dù xuất thân con nhà võ, nhưng “trí” ở ông được ghi nhận rõ qua nhiều biến cố quân sự:

  1. Mưu kế tài tình khi đánh quân Xiêm ở Hà Âm (dưới triều Thiệu Trị)
    Tài liệu cũ chép rằng, quân Xiêm phao tin có đến 20.000 người kết đồn lũy từ Tràng Giang đến Hà Âm. Lúc này, Nguyễn Công Nhàn cùng các tướng bàn kế sách, không đánh ồ ạt mà chọn điểm đột kích vào trung tâm để gây hoang mang, rồi chia cánh quân hợp sức bao vây. Vì thế, quân Xiêm bị chém giết, thu nhiều khí giới. Nhà vua khen ngợi: “Đã đánh là được, trí nghĩ vẹn toàn”, cho phép các tấu chương, tờ từ về sau đều ghi thêm “Hùng dũng tướng” trước tên ông.
  2. Lời tâu chính xác về sách lược “đánh hay dụ” quân Xiêm ở Trấn Tây
    Nhà vua hỏi: “Nên đánh dẹp hay phủ dụ quân Xiêm quấy rối ở Trấn Tây?” Nguyễn Công Nhàn tâu: quân Xiêm lúc đó ít hơn xưa, chỉ cần chờ mưa lụt để chia cắt đường bộ, rồi dùng thủy binh vây đánh. Thêm nữa, ông còn tính đến việc khai thác sự bất mãn của Miên, Lạp với Xiêm, để họ “cắn lại nhau”. Chiến lược này tỏ rõ ông không chỉ am hiểu binh pháp mà còn tận dụng “thiên thời, địa lợi”, khai thác mâu thuẫn của địch.
  3. Kế sách củng cố biên giới và giữ gìn vùng phên giậu
    Thời Tự Đức thứ 6, sử cũ ghi chép: “Nhàn vào chầu, vua hỏi mưu kế khiến ‘người xa phải phục, biên giới được yên, yếu chốt khi dùng binh’. Nhàn tâu đủ cả, vua khen là thực”. Ở đây, “người xa phải phục” được hiểu là các thế lực nước ngoài hoặc các vùng biên ải nhiều biến động (Trấn Ninh, Tây Nguyên, Trấn Tây…); muốn họ quy phục, trong nước phải có quân mạnh, triều đình vững vàng. Bên cạnh đó, chính sách phòng thủ biên giới, giữ vững chủ quyền luôn gắn liền với sức mạnh nội tại. Lời tâu của Nguyễn Công Nhàn đã thuyết phục vua Tự Đức, thể hiện cái nhìn chiến lược tổng thể.
  4. Chủ xướng đào kênh Vĩnh An Hà
    Khi giữ chức vụ ở An Giang, Nguyễn Công Nhàn đề xuất việc đào kênh Vĩnh An Hà (còn gọi Tân Châu Hà) nhằm nối Tiền Giang với Hậu Giang. Theo nhiều tư liệu, tuyến kênh này vừa phục vụ mục đích quân sự (di chuyển thủy binh nhanh chóng giữa hai dòng sông, hỗ trợ đánh quân Xiêm và Miên) vừa đem lại lợi ích kinh tế (khai hoang, bồi đắp phù sa, hỗ trợ nông nghiệp). Các nhà nghiên cứu như Sơn Nam, Nguyễn Văn Kiềm… đều khẳng định giá trị của công trình này. Việc chủ xướng đào kênh còn minh chứng tầm nhìn của ông vượt ra ngoài vai trò “tướng võ”, hướng tới phát triển kinh tế – xã hội bền vững cho vùng đất mới.

Nếu “trí” giúp ông “lấy ít địch nhiều, am hiểu thời cơ, địa lợi”, thì “dũng” lại thể hiện rõ qua hàng loạt trận đánh khắp Tây Nguyên, Hà Âm, Chi Trinh, Sa Tôn, Ba Xuyên… và nhất là tinh thần xả thân giúp nước.

  1. Dũng cảm dẹp bạo loạn ở Khai Biên, thời Minh Mạng
    Ông cùng Phó Lãnh binh Nguyễn Tiến Phúc truy bắt giặc ở núi Dao Bốc, La Ngốc; bắt sống cả trăm tên, thưởng “kỉ lục quân công” và được ban tặng ngân tiền Phi Long hạng lớn. Phần thưởng quý hiếm ấy thể hiện mức độ trọng vọng từ triều đình.
  2. Chặn đứng quân Xiêm tại Trấn Tây
    Quân Xiêm nhiều lần xâm lấn, đóng đồn vây chặt. Nguyễn Công Nhàn khi còn là Phó Lãnh binh đã tuyển hơn 100 quân tinh nhuệ đánh đột ngột trong đêm, chém thủ cấp địch, khiến chúng phải rút lui. Bị quân Xiêm phản kích mạnh, ông cùng một số tướng khác vẫn kiên cường bám trụ. Có lần, ông liều mình cứu Lãnh binh Đoàn Văn Sách khi vị này bị rơi vào ổ phục kích. Vua Minh Mạng khen ông “đáng khen là dũng tướng”, đồng thời thăng chức, cho tiếp tục trấn giữ Trấn Tây.
  3. Chiến công nối tiếp ở Sa Tôn và hàng loạt đồn khác
    Năm Minh Mạng thứ 21, ông dẫn 700 quân tiến đánh Mi Súc, Tà Sà, phá hơn 10 đồn, bắt sống nhiều giặc. Khi đến Chi Trinh, địch ẩn phục bên kia sông rất đông cũng phải tan vỡ. Vua ban tấm bài vàng “Hùng dũng tướng” để ghi nhận công lao. Danh xưng này gắn liền với ông suốt cuộc đời.
    Không chỉ dẹp quân Xiêm, “Hùng dũng tướng” còn lập công dẹp loạn ở Ba Xuyên, phối hợp với các tướng Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Tiến Lâm tấn công quyết liệt, thắng lớn. Nhà vua khen công “bình man” ấy, thăng ông lên Thự Đô đốc An Giang. Cũng từ đây, ông nhiều lần được phong chức cao hơn như Tổng đốc An Hà, Chưởng vệ lĩnh Đề đốc, Tuần phủ Hà Tiên kiêm Bố chính sứ…
  4. Kiên định kháng Pháp cho đến hơi thở cuối cùng
    Sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, rồi lần lượt Nam kỳ lục tỉnh, triều đình Huế ký các hiệp ước bất lợi, buộc những thủ lĩnh kháng chiến phải rời đi. Nguyễn Công Nhàn không tuân lệnh, ở lại tập hợp nghĩa quân đánh Pháp. Khi tình thế khó khăn, lực lượng hao hụt, ông rút về Đồng Tháp Mười, rồi mất tại Lấp Vò, Đồng Tháp. Tài liệu triều Nguyễn thừa nhận: “Không rõ về sau ông thế nào”, bởi việc ông mất được người dân địa phương giấu kín để tránh trả thù của thực dân. Đó cũng là một minh chứng cho tấm lòng trung trinh, tận tụy với nước của ông.

Dù để lại nhiều chiến công, “Hùng dũng tướng” cũng từng vướng sai phạm: sử cũ chép ông từng nhận hối lộvu tấu Nguyễn Công Trứ, bị giáng cấp, chịu tội, rồi được khôi phục chức Hiệp quản vì lập công dẹp man. Đây là vết gợn trong cuộc đời binh nghiệp lẫy lừng, song không làm lu mờ những đóng góp to lớn của ông cho vùng đất Tây Nam bộ.

Thay lời kết

Long Hưng, vùng đất sen hồng Đồng Tháp, từng là “mặt trận” kháng Pháp sôi nổi của nhiều tướng lĩnh triều Nguyễn. Bên cạnh các danh tướng như Võ Duy Dương, Nguyễn Tấn Kiều, vùng đất này còn khắc ghi dấu ấn của Nguyễn Công Nhàn, người “đã đánh là được, trí nghĩ vẹn toàn”.

Ngày nay, tên ông vẫn được đặt cho một số công trình, con đường ở An Giang, Đồng Tháp, Sóc Trăng nhằm tôn vinh công lao với quê hương. Nhưng xét về tổng thể, thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của ông còn tản mạn, chưa được hệ thống trọn vẹn. Mộ phần của ông nơi ấp Hưng Thành Tây cũng khá đơn sơ.

Việc tiếp tục nghiên cứu, trùng tu mộ phần, dựng bia tưởng niệm, phổ biến tư liệu về ông là thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, đồng thời thêm một lần khẳng định giá trị lịch sử – văn hóa to lớn mà những bậc trí dũng song toàn triều Nguyễn như “Hùng dũng tướng” Nguyễn Công Nhàn đã để lại cho đời sau.

Rate this post

Chúng tôi không có quảng cáo gây phiền nhiễu. Không bán dữ liệu. Không giật tít.
Thay vào đó, chúng tôi có:

  • Những bài viết chuyên sâu, dễ đọc
  • Tài liệu chọn lọc, minh bạch nguồn gốc
  • Niềm đam mê bất tận với sự thật lịch sử
DONATE

Toàn bộ tiền donate sẽ được dùng để:

  • Nghiên cứu – Mua tài liệu, thuê dịch giả, kỹ thuật viên.
  • Duy trì máy chủ và bảo mật website
  • Mở rộng nội dung – Thêm nhiều chủ đề, bản đồ, minh họa

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM