Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, vua Gia Long lên ngôi năm 1802. Tuy nhiên, thành công này chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự cùng sự trợ giúp của các thế lực nước ngoài (như Xiêm, Lào, Chân Lạp) và các giáo sĩ phương Tây, chứ chưa thật sự “thu phục” được lòng dân trong toàn quốc.
Chính việc lên ngôi trong điều kiện lòng dân còn chia rẽ đã khiến triều Gia Long và các vị vua kế nhiệm như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức luôn phải đối mặt với nhiều cuộc nổi dậy. Đáng chú ý hơn, khi đến đời Tự Đức (1848–1883), triều đình còn phải chống chọi với sự xâm lăng của thực dân Pháp, làm cho tình hình trong nước càng thêm rối ren.
Tuy lúc đầu, vua Gia Long nỗ lực ổn định trật tự, thiết lập guồng máy cai trị, nhưng do mâu thuẫn sâu xa giữa triều đình mới và sĩ dân Bắc Hà (vẫn nuôi lòng hoài Lê, vì nhà Lê có công đánh đuổi quân Minh) cùng chính sách “bá đạo” của một số tướng lĩnh được giao trọng trách Tổng trấn, những hạt mầm bất mãn sớm nảy sinh. Trong mắt sĩ dân Bắc Hà, triều Nguyễn đã “thất tín” khi dẹp xong Tây Sơn nhưng lại bỏ hẳn niên hiệu Cảnh Hưng của nhà Lê, không tiếp nối nhà Lê như lời hô hào ban đầu.
Triều Gia Long cũng đóng đô ở Huế – một vùng xa kinh kỳ Thăng Long. Điều này khiến nhân dân Bắc Hà càng cảm thấy bị “bỏ quên”. Hơn nữa, chế độ Tổng trấn trao quyền lực sinh sát quá lớn cho các đại tướng như Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Đặng Trần Thường, dẫn đến nhiều vụ thanh trừng, trả thù cá nhân, làm người Bắc Hà oán giận. Từ nền tảng đó, các cuộc loạn lạc bùng lên rải rác ngay từ đời Gia Long và nhiều hơn vào các triều kế tiếp.
Thiên tai và nạn đói triền miên
Bên cạnh những bất ổn về mặt chính trị, nước ta trong giai đoạn này còn liên tiếp hứng chịu đủ loại thiên tai. Chính sử và các tài liệu đương thời ghi nhận các nạn đói lớn cùng những lần đại hạn, lụt, bão khiến dân tình sa sút. Có thể điểm qua một số thời điểm:
- 1848 (Tự Đức nguyên niên): Hà Tĩnh điêu đứng vì giá gạo tăng vọt.
- 1850: Mất mùa trên diện rộng, dịch đậu mùa ở Hữu Trực Kỳ và Tả Trực Kỳ cướp đi 60 vạn sinh mạng.
- 1856, 1857: Lũ lụt lớn tàn phá Bắc Kỳ, cuốn đi hàng nghìn làng mạc; nạn đói tràn lan.
- 1858: Nạn đói nghiêm trọng tiếp tục đeo bám dân chúng; cùng năm đó, thực dân Pháp tấn công cửa Hàn (Đà Nẵng).
- 1864: Đói kém hoành hành từ Thừa Thiên đến Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh…; Nam Kỳ cũng đói vì đại hạn, không có tiền mua thóc giống.
- 1865: Các tỉnh Vĩnh Long, An Giang còn thuộc triều đình nhưng lại vướng đại hạn; giá gạo không ngừng leo thang.
Hàng loạt tai ương như vậy đã bào mòn sức dân. Trong tình cảnh “trời làm đại hạn lâu ngày”, “đê điều vỡ lung tung”, “châu chấu phá lúa”, dân chúng đói khổ mà triều đình vẫn phải còng lưng nộp bồi khoản chiến phí cho Pháp (sau Hoà ước Nhâm Tuất 1862) thì làm sao lòng dân không oán thán. Lại thêm nạn tham nhũng, sách nhiễu của quan lại khiến “trăm họ” lâm vào bước đường cùng, dễ nổ ra các cuộc phiến động để tự cứu lấy mình.
Mẫu thuẫn giữa triều đình và sĩ dân bắc hà
Ngay từ đầu thế kỷ 19, lòng “hoài Lê” đã là một trong những nguyên nhân chính khiến miền Bắc liên tục biến động. Những lời kêu gọi “Phù Lê” từ thời chúa Nguyễn Hoàng còn vang vọng, khơi dậy tinh thần chống đối khi triều Nguyễn tỏ ra thờ ơ, thậm chí đàn áp sĩ phu Bắc Hà.
Thêm vào đó, Gia Long và các tướng Tổng trấn như Đặng Trần Thường, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành đã có nhiều hành động bị xem là “khinh miệt” giới nho sĩ miền Bắc. Nhiều danh sĩ dưới triều Tây Sơn hoặc gắn bó với nhà Lê bị làm nhục, đánh đòn, thậm chí giết hại. Sự việc Ngô Thì Nhiệm bị đánh đến nứt ruột hay Phan Huy Ích bị đòn đau là những ví dụ gây chấn động, tạo nên hố ngăn cách rất lớn giữa “chính quyền mới” và “dân chúng cũ”.
Vốn dĩ, nếu nhà Nguyễn làm tốt công tác phục hưng, chăm lo, có lẽ nỗi lòng nhớ Lê sẽ vơi dần. Thế nhưng, tham nhũng và hà khắc nảy sinh khắp nơi. Quan lại người miền ngoài không mấy được trọng dụng, hoặc nếu có, cũng bị ràng buộc, giám sát khắt khe. Đối với dân quê nghèo, nặng nhất vẫn là thuế khoá, phu dịch cùng việc đê điều bị bỏ bê. Đê Văn Giang vỡ liên tục 18 năm (theo một số ghi chép), khiến người nông dân miền Bắc lâm vào tình cảnh khốn cùng, vô tình hoặc hữu ý tạo điều kiện cho các cuộc nổi dậy.
Tham nhũng
Bên cạnh xung đột chính trị, tham nhũng là vết thương dai dẳng, từ thời Gia Long sang Minh Mạng và đặc biệt trầm trọng ở thời Tự Đức. Do bận rộn đối phó quân Pháp, triều đình “thả lỏng” nhiều nơi, tạo kẽ hở cho quan lại “bòn rút” từ trên xuống dưới.
Hiện tượng “đê vỡ 18 năm liền” ở Văn Giang (thuộc tỉnh Hưng Yên) là minh hoạ rõ rệt cho tình trạng quan lại chỉ lo làm giàu, bỏ mặc công trình thuỷ lợi sống còn của nông dân. Kết quả là mất mùa, đói kém liên miên, dân cùng kiệt sức lại càng bất mãn, dẫn đến những vụ nổi dậy “muỗi kêu thành sấm, kiến họp rung cây”.
Thơ tố cáo thói nhũng nhiễu bay về kinh thành như bươm bướm. Ngay cả Hoàng thân như Tùng Thiện Vương hay các đại thần trung trực kiểu Ông Ích Khiêm cũng nhiều lần dâng sớ xin triều đình thẳng tay trừng trị kẻ tham ô, nhưng kết quả không đáng kể. Vua Tự Đức không hẳn không biết, nhưng nhà vua vừa yếu vì bệnh tật, vừa giữ lối suy nghĩ “tự an ủi” hoặc “phó mặc vận nước”, một phần vì hoàng gia khi đó chia rẽ, triều chính rệu rã.
Các cuộc nổi loạn lớn
Suốt những năm Tự Đức tại vị, hầu như năm nào ở Bắc Kỳ cũng có những cuộc nổi dậy: Lê Uẩn, Tạ Văn Phụng, Cai Vàng, Mọi Đá Vách, các toán giặc người Hoa (như giặc Tam Đường, giặc Cờ Vàng, Cờ Đen, Cờ Trắng)… hoành hành khắp chốn. Miền Trung cũng không yên với Mọi Đá Vách ở Quảng Ngãi nổi dậy nhiều lần. Miền Nam thì nước mất dần vào tay Pháp, các cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Đồng Nai – Gia Định, An Giang, Hà Tiên cứ dâng lên rồi bị đàn áp, nhưng không chịu khuất phục.
Dưới đây là sơ lược một vài vụ nổi dậy:
- Giặc Tam Đường (1851): Lý Đại Xương, Hoàng Nhị Vân, Lưu Sĩ Anh quấy phá Thái Nguyên, kéo dài nhiều năm.
- Giặc Châu Chấu (1854): Cao Bá Quát cùng Lê Duy Cự (dòng dõi nhà Lê) gây biến ở Sơn Tây – Hà Nội, được dân nghèo ủng hộ vì oán thán triều đình.
- Tạ Văn Phụng (1861–1865): Mạo xưng con cháu nhà Lê, khiến các tỉnh Quảng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang… rơi vào cảnh rối loạn. Quan quân nhiều lần thất bại, dốc sức đánh dẹp rất khốc liệt.
- Cai Vàng (1862): Liên kết với Tạ Văn Phụng, hoành hành ở phủ Lạng Giang, Yên Dũng, rồi vây luôn tỉnh thành.
- Bên cạnh đó, giặc Miên cũng nổi ở An Giang, Hà Tiên; giặc Mèo nổi ở Hưng Hoá; các thế lực Cờ Vàng, Cờ Đen, Cờ Trắng tràn sang biên giới…
Điểm chung của những cuộc nổi dậy ấy là sự chán ghét và mất niềm tin vào triều đình, cùng mong muốn tìm một con đường giải thoát khỏi nạn “một cổ hai tròng” – vừa bị giặc Pháp xâm lăng vừa bị chính quyền sở tại bóc lột.
Tình trạng ấy kéo dài mãi đến cuối đời Tự Đức, làm suy kiệt quân đội, tướng lĩnh. Dù triều đình đưa những danh tướng như Nguyễn Tri Phương, Phan Đình Tuyển, Tôn Thất Tuệ ra trận, nhiều người tử trận. “Quân và dân kiệt quệ lắm rồi” – lời tâu của Nguyễn Tri Phương lên vua Tự Đức năm 1860 cho thấy bức tranh bi đát.
Âm mưu đảo chính
Ngay chính tại Huế, trung tâm quyền lực, cũng xảy ra ba vụ âm mưu đảo chính lớn:
- Vụ Hồng Bảo (1851): Hồng Bảo là anh ruột vua Tự Đức, từng nuôi tham vọng cướp ngôi. Thậm chí, có lời đồn Hồng Bảo bí mật thông đồng với Pháp. Kết cục, mưu sự thất bại, Hồng Bảo bị kết án và mất mạng.
- Vụ công tử Hồng Tập (1865): Hồng Tập thuộc hoàng phái, cũng toan tạo phản nhưng thất bại.
- Vụ “Giặc chày vôi” (1866): Đoàn Hữu Trưng (con rể Tùng Thiện Vương – chú ruột vua Tự Đức) âm mưu lật đổ vua, tự cho là vì “trung nghĩa”. Họ Đoàn thành lập “Sơn Đông thi tửu hội” làm vỏ bọc. Khi mọi chuyện vỡ lở, vua Tự Đức ra tay trừng trị thẳng thừng.
Sự kiện đáng chú ý là cả ba vụ đều liên quan tới người thân thích hoặc hoàng tộc, chứng tỏ nội bộ hoàng gia không đồng lòng, vua Tự Đức không chiếm trọn lòng tin của chính hoàng tộc mình. Điều này cũng làm lung lay “thần tượng quân quyền” xưa nay vẫn được thần thánh hoá ngay tại kinh đô.
Chúng ta có thể thấy, các thủ lĩnh đảo chính có thể vì động cơ cá nhân muốn “cướp ngôi”, song cũng ít nhiều phản ánh sự bất mãn với chính sách đối nội, đối ngoại của triều đình. Sau này, sử quan nhà Nguyễn đương thời, vì sợ liên luỵ, thường ghi chép các vụ này theo chiều hướng “kết tội” tất cả những ai âm mưu lật đổ. Tuy vậy, một số tài liệu ngoài chính sử cho thấy các nhân vật như Đoàn Hữu Trưng đã để lại những bài thơ, văn biện minh cho hành động của mình, với lời lẽ thể hiện nỗi đau khi nước nhà sa sút, quan lại hối lộ, dân tình khổ cực.
Tóm lại
Triều Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức đã kế thừa không ít sai lầm từ quá trình “khai triều” bằng bạo lực, lại thiếu chiến lược thu phục lòng dân. Đến cuối thời Tự Đức, các xung đột cũ – mới, trong – ngoài cùng dồn đến: thiên tai, nạn đói, giặc cướp, tham nhũng, nội bộ hoàng gia chia rẽ và giặc Pháp xâm lược. Tất cả tạo nên một cục diện rối ren, kéo theo hàng loạt cuộc loạn lạc hầu như năm nào cũng có, triều đình thì hết sức lao đao.