Nguyễn Trung Trực (阮忠直) sinh năm 1839, mất năm 1868(1), là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp ở Tân An (nay thuộc Long An) và Rạch Giá (nay thuộc Kiên Giang). Ông chào đời dưới triều vua Minh Mạng, thuở nhỏ có tên là Chơn. Đến năm Kỷ Mùi (1859), ông đổi tên thành Lịch (Nguyễn Văn Lịch). Tên hiệu “Trung Trực” có xuất xứ từ chính phẩm chất trung thực, ngay thẳng của ông. Thầy dạy học thấy ông “Chơn” tính, lại thẳng thắn, bèn đặt thêm danh hiệu “Trung Trực”(2).
Gia đình ông gốc ở xã Vĩnh Hội, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Sau, vì cảnh giặc giã, gia đình phải trôi dạt vào Nam sinh sống ở xóm Nghề, làng Bình Nhựt (tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An – nay thuộc ngoại ô TP. Tân An, Long An). Rồi họ lại dời về làng Tân Thuận, tổng An Xuyên (nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau).
Từ nhỏ, Nguyễn Trung Trực nổi tiếng hiếu động, giỏi võ nghệ và đầy can đảm. Khi lớn, ông theo nghĩa binh tham gia giữ đại đồn Chí Hòa (1859), thuộc hệ thống đồn điền của Kinh lược đại thần Nguyễn Tri Phương. Đến giai đoạn 1861, nhờ lập nhiều chiến công, ông được triều đình phong chức “Quyền sung Quản đạo”(3). Trong dân gian, ông còn được gọi là Quản Chơn hay Quản Lịch.
Dưới trướng Nguyễn Trung Trực có nhiều người yêu nước như Nguyễn Hiền Điều (Phó Cơ Điều), Nguyễn Học, hương thân Hồ Quang… Tất cả tập hợp thành nghĩa quân chuyên đánh Pháp bảo vệ vùng Tân An, Mỹ Tho, rồi mở rộng xuống Kiên Giang, Hà Tiên, Phú Quốc…
Chiến công
Nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt đã khắc họa gọn ghẽ hai chiến công lẫy lừng của Nguyễn Trung Trực qua câu thơ:
Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa,
Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần.
Hỏa hồng Nhựt Tảo và Kiếm bạc Kiên Giang chính là hai đỉnh cao trong sự nghiệp chống Pháp của người anh hùng áo vải này.
1. Hỏa hồng Nhựt Tảo
Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ (25/2/1861), Nguyễn Trung Trực rút về Tân An (nay thuộc Long An). Thời điểm ấy, quân Pháp đã chiếm Mỹ Tho (tức thành Định Tường, vào ngày 12/4/1861), thường cử tàu chiến tuần tra trên các ngã sông. Một trong số đó là tiểu hạm Espérance (Hy Vọng), đậu ở vàm Nhựt Tảo, thuộc xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, Long An.
Chiếc Espérance là tàu hơi nước, vỏ gỗ bọc đồng, trang bị đại bác và vũ khí hiện đại. Đây được xem là “tài sản quý” của hải quân Pháp, có khả năng xâm nhập sông rạch cạn. Trưa ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực cùng phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng, Võ Văn Quang (hoặc Nguyễn Văn Quang, theo một số tài liệu) bố trí phục kích đốt tàu. Trận Nhật Tảo diễn ra chóng vánh nhưng vô cùng hiệu quả. Quân của ông tiêu diệt 17 lính Pháp và 20 cộng sự người Việt, chỉ có 5 người trốn thoát (2 lính Pháp và 3 lính Tagal – lính đánh thuê Philippines).
Trận thắng này gây chấn động lớn. Viên chỉ huy tàu Espérance là trung úy hải quân Parfait lúc đó không có mặt. Sau khi hay tin, Parfait tức giận ra lệnh đốt phá nhiều nhà cửa dân quanh thôn Nhựt Tảo. Về phía triều đình Huế, Nguyễn Trung Trực được ban thưởng, ghi nhận chiến công trong sử sách.
Phía Pháp, Paulin Vial – viên thanh tra bản xứ – gọi đây là “một sự kiện đau đớn” khiến người Pháp vô cùng hoang mang, còn người An Nam thì “phấn chấn và hả lòng”. Alfred Schreiner cũng nhìn nhận trận Nhựt Tảo “đã gây một nỗi xúc động sâu sắc nơi người Pháp” và “kích thích lạ lùng trí tưởng tượng của người Annam”.
Sau chiến công này, nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực liên tục đánh phá tàu tuần tiễu của Pháp trên sông Bến Lức (tháng 12/1862) và trên sông Tra (16/12/1862) – nay thuộc xã Hựu Thạnh, huyện Đức Hòa, Long An – khiến Pháp tổn thất thêm nhân mạng lẫn vũ khí. Báo cáo của Paulin Vial và sử liệu của Georges Taboulet đều xác nhận chuỗi tấn công dồn dập ấy đã “nối tiếp hiệu ứng” từ trận Espérance vang danh.
2. Kiếm bạc Kiên Giang
Sau Hòa ước Nhâm Tuất (1862), ba tỉnh miền Đông Nam Bộ mất vào tay Pháp, Nguyễn Trung Trực rút về hoạt động ở các tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông ra Huế, được phong chức Lãnh binh. Giữa năm 1867, ông về Hà Tiên trấn giữ, giữ chức Hà Tiên thành thủ úy. Nhưng thành Hà Tiên thất thủ ngày 23/6/1867, theo lệnh triều đình, ông rút quân về Bình Thuận, rồi về Hòn Chông (Kiên Giang)(7).
Đêm 16/6/1868, nghĩa quân (có sự tham gia của người Hoa, người Khmer, hương chức địa phương) bất ngờ tập kích đồn Kiên Giang (nay là TP. Rạch Giá), giết 5 sĩ quan Pháp, thu được nhiều súng ống đạn dược, làm chủ đồn đến 5 ngày. Đây là lần đầu tiên nghĩa quân đánh thẳng vào đầu não của tỉnh, đẩy Pháp vào thế rối loạn tạm thời. Viên chủ tỉnh Rạch Giá và trung úy Gamard tử trận, khiến chính quyền Pháp cho đó là “một sự kiện bi thảm” (un événement tragique)(8).
Hai ngày sau, trung tá hải quân A. Léonard Ansart cùng Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương kéo quân từ Vĩnh Long sang ứng cứu. Đến 21/6/1868, quân Pháp phản công dữ dội, Nguyễn Trung Trực đành rút về Hòn Chông, rồi ra đảo Phú Quốc lập chiến khu tại Cửa Cạn để trường kỳ kháng chiến.
Tháng 9/1868, tàu Groeland của Pháp chở Huỳnh Văn Tấn (tức Lãnh binh Tấn, một cựu nghĩa quân nay về cộng tác với Pháp) cùng 150 lính từ Gò Công tới bao vây Phú Quốc. Vì bị bao vây lâu ngày, thiếu lương thực, lại lo cho tính mạng của nhân dân đảo cũng như nghĩa quân, Nguyễn Trung Trực quyết định ra hàng để bảo toàn tính mạng đồng đội và giữ trọn đạo hiếu với mẹ (vì Pháp đã bắt mẹ ông để uy hiếp). Sau đó, ông bị giải về khám Lớn Sài Gòn. Theo Pau Vial, ông Trực còn bày tỏ “chỉ cần được chết sớm chừng nào, hay chừng nấy” khi biết lực bất tòng tâm. Pháp giải ông về khám, rồi đưa về lại Rạch Giá xét xử.
Thọ tử
Không dụ hàng được Nguyễn Trung Trực, đô đốc Ohier ra lệnh xử chém ông vào ngày 27/10/1868. Cuộc hành hình diễn ra tại chợ Rạch Giá, trên mảnh đất đối diện “chợ nhà lồng” (sau trở thành “Nhà Giây Thép”, rồi Ty Bưu điện tỉnh). Ông mất lúc khoảng 30 tuổi.
Tương truyền, buổi sáng hôm ấy, dân các nơi (nhất là vùng Tà Niên, nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp) kéo đến xem đông nghịt. Người ta kể rằng Nguyễn Trung Trực yêu cầu Pháp mở trói, không bịt mắt, để ông được nhìn lần cuối đồng bào, quê hương. Lúc ấy, một vị bô lão dâng tấm chiếu hoa có chữ “thọ” màu đỏ để ông đứng, thể hiện sự tôn kính người anh hùng trước giờ phút hy sinh. Trước khi tuẫn tiết, ông hiên ngang ngâm bài thơ tuyệt mệnh bằng chữ Hán, được thi sĩ Đông Hồ dịch như sau:
“Theo việc binh nhưng thuở trẻ trai,
Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.
Anh hùng gặp phải hồi không đất,
Thù hận chang chang chẳng đội trời.”
Máu của Nguyễn Trung Trực đã thấm trên mảnh đất Rạch Giá, để lại nỗi cảm thương vô hạn cho người dân địa phương. Cuộc hành quyết vừa thể hiện sự tàn bạo của Pháp, vừa khơi dậy lòng căm phẫn, lòng biết ơn ông trong khắp nhân dân.
Câu nói lưu danh
Trong lịch sử chống Pháp, Nguyễn Trung Trực nổi tiếng với câu nói bất hủ khi bị đưa về Sài Gòn gặp viên thống soái Nam Kỳ. Pháp vừa dụ hàng vừa đe dọa, ông khảng khái đáp:
“Chừng nào người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, mới hết người Nam đánh Tây.”
Câu này thể hiện rõ ý chí bất khuất và khẳng định cuộc kháng chiến là lẽ sống của dân tộc. Không riêng gì ông, “cỏ nước Nam” tiếp nối đến các lãnh tụ nghĩa quân khác như Trương Định, Thủ Khoa Huân, Phan Tôn, Phan Liêm… Câu nói ấy cũng giống lời thề còn một hơi thở, còn ý chí đấu tranh.
Khen ngợi
Nhiều nhà Nho yêu nước đương thời và cả người Pháp cũng bày tỏ sự kính trọng khi nhắc đến Nguyễn Trung Trực:
- Nguyễn Thông (1827-1884), trong “Truyện Hồ Huấn Nghiệp” (Kỳ Xuyên văn sao), viết: “Nguyễn Văn Lịch tính thâm trầm, nghiêm nghị và can đảm…”
- Paulin Vial, viên thanh tra bổn xứ Nam Kỳ, thuật lại lúc đại úy hải quân Piquet thẩm vấn, ông Trực tỏ ra “rất cương quyết và đàng hoàng”. Qua lời đối đáp, ông Trực bộc lộ là người “tự trọng, có tư cách đáng quý, đầy nghị lực, và cực kỳ thông minh”.
- Alfred Schreiner cũng ghi: “Trong suốt thời kỳ bị giam cầm, ông không hề tỏ ra yếu đuối. Một cách thẳng thắn, đàng hoàng, ông nhận hết chiến công mà mình làm, và nói rõ đã khinh thường sức mạnh của Pháp. Ông chỉ xin ân huệ duy nhất là được xử tử ngay tức khắc.”
Về phía sĩ phu Việt, Huỳnh Mẫn Đạt (khi ấy làm Tổng đốc Rạch Giá) đã sáng tác bài thơ điếu nổi tiếng với hai câu bất hủ:
Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa,
Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần.
Trong bài thơ điếu ấy, ông tôn vinh chiến công đốt tàu Espérance (“Hỏa hồng Nhựt Tảo”) và đánh chiếm đồn Kiên Giang (“Kiếm bạc Kiên Giang”), ca ngợi khí phách người anh hùng “một sớm nhẹ mình nêu tiết nghĩa, đôi đường trọn chữ báo quân thân”.
Vua Tự Đức cũng thể hiện sự trân trọng qua việc sai hoàng giáp Lê Khắc Cẩn làm lễ truy điệu, đọc bài điếu đặc biệt do chính vua sắc mệnh, với những câu:
“…Hỏa Nhựt Tảo thuyền,
Đồ Kiên Giang lũy…
Xích huyết hoàng sa,
Huyết thực thiên thu,
Chương nhữ trung nghĩa.”
Nhà vua còn sắc phong Nguyễn Trung Trực là “Thượng đẳng linh thần” và cho lập đền thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá, nơi ông “hiên ngang thà chịu chết chứ không chịu hàng”.
BÀI LIÊN QUAN:
Tưởng nhớ
Sau khi hy sinh, nhân dân địa phương vô cùng thương tiếc, bí mật lập bàn thờ ông ngay trong đền thờ Nam Hải Đại Vương (thờ cá Ông) tại Rạch Giá. Dần dần, nơi đây trở thành đền thờ chính mang tên Đình Nguyễn Trung Trực.
Về sau, khi người Pháp không còn cai trị nước ta, nhân dân đã dựng tượng đồng ông trước chợ nhà lồng Rạch Giá (năm 1970). Sau này, để quy hoạch lại đô thị, mộ phần và tượng thờ được dời vào khuôn viên đền thờ, dựng thêm tượng lớn hơn (năm 2000), còn khu chợ nhà lồng cũ thì chuyển thành công viên. Như vậy, tượng đài và khu tưởng niệm Nguyễn Trung Trực ở TP. Rạch Giá vẫn được gìn giữ trân quý, ngày càng tôn nghiêm.
Hiện nay, nhiều tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long đều lập đền thờ Nguyễn Trung Trực, hằng năm tổ chức lễ giỗ trọng thể. Đặc biệt, Đình Nguyễn Trung Trực tại TP. Rạch Giá luôn có lễ giỗ từ 27 đến 29 tháng 8 âm lịch, thu hút đông đảo người dân đến viếng. Ngôi đình và mộ của ông tại đây đã được Nhà nước xếp hạng di tích Lịch sử – Văn hóa cấp Quốc gia (ngày 06/12/1989).
Người đời vẫn tôn vinh ông là “Sống làm tướng, thác làm thần”. Xuất thân từ giới dân chài áo vải, Nguyễn Trung Trực để lại tấm gương chói sáng về tinh thần quyết tử cho Tổ quốc. Đúng như khẩu khí trong câu nói: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây.”
Nguyễn Trung Trực, ở tuổi đời còn rất trẻ (khoảng 30), đã dùng cả cuộc đời cho sự nghiệp “cứu dân cứu nước”. Ông bất tử trong lòng người dân Nam Bộ bởi lòng trung trinh, đức hi sinh và tài thao lược quật cường. Có thể nói, tấm gương của ông là “anh khí như hồng” – rực rỡ như cầu vồng bảy sắc, trường tồn với lịch sử.