Lịch Sử Việt Nam

Nhà Mạc: Ngàn năm công tội

Vương triều Mạc còn nhiều tranh cãi về tính chính thống cũng như hành động “thần phục” phương Bắc

cong toi cua mac dang dung

Tác giả bài gốc: Kiến Hào

Blog Lịch Sử tổng hợp và biên soạn

Bài viết này khái quát một số vấn đề liên quan đến vương triều Mạc, từ bối cảnh lịch sử và các cuộc tranh cãi về tính chính thống của nhà Mạc cho đến những đề xuất, quan điểm đương đại về đặt tên đường phố nhằm “công nhận” hay “minh oan” cho vương triều này. Xin được lược dẫn những dữ liệu và ý kiến từ giới nghiên cứu, tư liệu sử cũ cùng với một số nhận định nhằm cung cấp cho bạn đọc cái nhìn đa chiều. Bài viết tôn trọng các góc nhìn khác nhau, qua đó mong người đọc có thể tự đánh giá và chiêm nghiệm. Thông tin được trích dẫn chủ yếu từ sử cũ và kết quả hội thảo về nhà Mạc đã được công bố rộng rãi.

Hoàn cảnh lịch sử

Trấn Hải Dương được xem là vùng đất “phát tích” của nhà Mạc, trong khi Thanh Hoa (Thanh Hóa) lại là đất thang mộc của vương triều Lê. Thời kỳ Nam – Bắc phân tranh (1533 – 1592), từ Ninh Bình trở ra thuộc họ Mạc, còn từ Thanh Hóa trở vào thuộc Lê – Trịnh. Cuộc nội chiến dai dẳng ấy tiêu hao sinh mạng và của cải, khiến nền kinh tế kiệt quệ, ruộng vườn tiêu điều, đời sống nhân dân lầm than.

Nhà Mạc, sau hơn nửa thế kỷ tồn tại chính thức ở Thăng Long (1527 – 1592), đã lui vào dĩ vãng cùng bao biến động thăng trầm. Tuy nhiên, nỗi niềm của con cháu nhà Mạc dường như vẫn còn vương vấn, dẫn đến nhiều cuộc hội thảo nhằm xét lại công – tội của vương triều này. Tiêu biểu là hai cuộc hội thảo về nhà Mạc: một tại Hải Phòng (1994) và một tại Hà Nội (2010, nhân kỷ niệm 1000 năm Thăng Long). Qua đó, nhiều ý kiến mới mẻ, khác biệt so với quan điểm của các sử gia thời Lê, Nguyễn, hoặc ngay cả giới sử học hai miền Nam – Bắc trước đây, đã được đề xuất.

Dẫu vậy, việc thay đổi một quan điểm chung đã định hình từ lâu rõ ràng là không dễ dàng, nhất là khi nền sử học chính thống Việt Nam nhiều thế kỷ qua hầu như nhất quán xem nhà Mạc là “ngụy triều” hay “tiếm ngôi” nhà Lê. Nếu muốn xoay chuyển góc nhìn, các lý lẽ phản biện phải đủ sức thuyết phục, khách quan, khoa học, hợp lý – chứ không đơn thuần là “lượm lặt” sự kiện nhỏ lẻ rồi gán ghép theo ý chủ quan.

Đặc biệt, việc viết lại chương trình lịch sử hay sách giáo khoa cho hàng triệu học sinh sau này là vấn đề hệ trọng. Sử sách truyền đời không chỉ cung cấp kiến thức mà còn định hình nhận thức, lòng tự tôn dân tộc. Do đó, người viết sử cần đặt lợi ích quốc gia lên trên mọi góc độ ngoại giao nhất thời hoặc cục bộ địa phương, tránh “uốn cong ngòi bút” để lái lịch sử sai lạc.

Đặt tên đường để chấm dứt tranh cãi?

Năm 2014, Hà Nội từng đề xuất đặt tên đường phố “Mạc Thái Tổ” và “Mạc Thái Tông”. Đại biểu Quốc hội – nhà sử học Dương Trung Quốc đã lên tiếng phản đối, cho rằng chưa thích hợp để đặt tên phố Mạc Thái Tổ, và chính quyền thành phố đã tạm rút đề xuất để củng cố thêm tư liệu. Năm 2015, Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Hà Nội tiếp tục đề xuất lại, lần này nhà sử học Dương Trung Quốc chỉ đồng tình phương án đặt tên đường Mạc Thái Tông, còn “Mạc Thái Tổ” thì vẫn tạm gác.

Quan điểm ấy, xét cho cùng, cũng phản ánh một thái độ “thận trọng” của giới nghiên cứu: Nếu chỉ ghi nhận vương triều Mạc bằng việc vinh danh Mạc Thái Tông – người trị vì sau Mạc Thái Tổ – thì có lẽ cũng là cách để nhìn nhận phần nào tính chính thống và đóng góp của nhà Mạc, đồng thời tránh những tranh cãi gai góc xoay quanh hành động của Mạc Đăng Dung (Mạc Thái Tổ).

Tại kỳ họp HĐND Hà Nội (6/7/2015), thành phố chính thức thông qua nghị quyết đặt tên 19 tuyến đường phố mới, trong đó có hai tuyến mang tên hai vị vua đầu triều Mạc. Báo chí trong nước bày tỏ đồng tình, dẫn lời các nhà nghiên cứu uy tín. Tuy nhiên, không phải không có ý kiến trái chiều, như bài của tác giả Trần Thị Băng Thanh trên báo Tiền Phong (14/6/2015). Bài viết nêu nhiều dẫn chứng chặt chẽ, khiến người đọc phải suy nghĩ lại những góc khuất quanh nhà Mạc.

Thần phục là giả, độc lập là thật?

Theo chiều hướng “minh oan” cho nhà Mạc, một số nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử Việt Nam (Ngô Đăng Lợi, Lê Văn Lan, Nguyễn Danh Phiệt, Phan Huy Lê, Dương Trung Quốc, Phan Văn Các, Hoàng Lê, Phan Đăng Nhật…) cho rằng Mạc Đăng Dung thật ra không đầu hàng phương Bắc. Cố giáo sư Trần Quốc Vượng còn nhấn mạnh: “Hành động ‘đầu hàng’ của nhà Mạc do Minh sử chép là phóng đại… Thực ra đó chỉ là sự ‘nhún mình’ của một nước nhỏ đối với nước lớn…”

Nhiều ý kiến lập luận Mạc Đăng Dung đã “chịu nhục” để tránh mối họa can qua, giúp nước Đại Việt đỡ cảnh binh đao. Nói cách khác, nhà Mạc “thần phục tượng trưng”, nhưng bên trong vẫn duy trì độc lập. Nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Tường khẳng định: “Nhờ sự nhẫn nhục của Mạc Đăng Dung, quân Minh rút lui, triều Minh cũng bớt hung hăng”.

Song, vấn đề là tư liệu sử cũ của chính Việt Nam (chứ không riêng gì Minh sử) lại ghi rõ các chi tiết “đầu hàng” và “cắt đất”. Những thông tin ấy không phải do sử quan nhà Minh bịa ra, mà cũng được chép trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Việt Sử ký Toàn thư, Đại Việt thông sử

Ví dụ, Việt sử thông giám cương mục (Chính biên XXVII) miêu tả:

Mạc Đăng Dung cùng cháu là Văn Minh và hơn 40 người khác, buộc dây vào cổ, đi chân không, phủ phục trước mạc phủ của tướng Minh, dâng tờ biểu xin hàng. Họ nộp sổ sách đất đai – nhân dân, xin được nhà Minh ban chính sóc (lịch) và ấn chương để cai quản, đồng ý cắt một số động thuộc trấn Yên Quảng cho nhà Minh…

Cũng theo cương mục, nhà Minh thậm chí đã đổi Đại Việt thành “An Nam đô thống sứ ty” trực thuộc Quảng Tây, phong Mạc Đăng Dung làm Đô thống sứ. Năm vùng (động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù) bị sáp nhập vào Khâm Châu. Người Việt phải hàng năm “lên Nam Quan lĩnh lịch”, tiến cống cho nhà Minh.

Một dẫn chứng khác trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, quyển XVI cũng tường thuật chi tiết: Mạc Đăng Dung cùng tùy tùng cởi trần, buộc thước, dây ở cổ, quỳ gối xin hàng trước đại diện quân Minh. Thậm chí, nhà Minh còn sáp nhập nước ta thành mười ba tuyên phủ ty, coi như xóa sổ Đại Việt trên danh nghĩa.

Như vậy, nếu nói nhà Mạc “thần phục giả vờ” thì không lẽ việc thay đổi quốc hiệu thành “An Nam đô thống sứ ty”, cắt đất, cống nạp, nhận ấn quan nhà Minh… cũng là “giả vờ” hết ư? Chưa kể, sử gia Ngô Thì Nhậm khi đi sứ qua “Thành Thụ hàng” (cửa ải mà Mạc Đăng Dung tới dâng biểu) đã làm thơ mỉa mai hành động này. Đó là một “vết nhơ” hiển hiện trong lịch sử.

Mạc Đăng Dung có dâng đất cho nhà Minh không?

Bên cạnh lý lẽ “khống” hay “nộp vờ”, một số tác giả giải thích vùng đất mà nhà Mạc cắt dâng thật ra “là của nhà Minh từ trước” và nhà Lê “mạo chiếm”. Nhưng:

  1. Sử Việt nhất quán ghi nhận đó là đất biên viễn khi xưa tự nguyện nhập vào Đại Việt thời Lê sơ; người dân nộp thuế và sống dưới triều Lê gần 100 năm.
  2. Chủ quyền trên thực tế đã thuộc về Đại Việt chứ không phải giành giật bằng bạo lực. Mạc Đăng Dung, để cầu hòa, chính thức công nhận chủ quyền cho nhà Minh bằng hành động “dâng” các động ấy, ngang nhiên coi đó là đất “xưa” của Trung Quốc.

Phan Huy Lê, trong hội thảo tại Kiến Thụy (Hải Phòng, 1994), có đề cập: “Việc cắt bốn động… là có thật. Bên nhà Minh đòi, nhà Mạc trả. Tuy nhiên việc này không thể chấp nhận được…” Nhưng rồi ông cũng nói: “Về một khía cạnh nào đó, những vùng đất ấy vốn thuộc nhà Minh.” Cách nói này bị không ít người cho là “nước đôi,” vì nếu đất ấy vốn thuộc nhà Minh, tại sao gần cả thế kỷ trước đó (thời Lê) đã sáp nhập chính thức vào Đại Việt?

Quan điểm “để giữ hòa bình, phải cắt đất” cũng bị nghiêm khắc phản đối, bởi cắt đất là trao hẳn chủ quyền lãnh thổ cho giặc, khác hẳn trường hợp nhà Thanh “nhượng tô giới” cho phương Tây ở Trung Quốc (chỉ là quyền khai thác kinh tế, trong thời hạn xác định). Đằng này, Mạc Đăng Dung nộp luôn mấy động. Trong khi triều Lê thường đề cao “một tấc đất cũng không được để mất”, thì hành động ấy rõ ràng là tổn hại cho quốc gia.

Do đó, nói rằng “Mạc Đăng Dung dâng đất khống, lừa vua Minh” hay “chỉ trả lại vùng đất gốc Trung Hoa” là ý kiến không đủ căn cứ vững chắc, dễ dẫn đến hiểu sai. Thậm chí, một số ý kiến xem đó là “bán nước,” “phản quốc,” gây phẫn nộ cho những người coi trọng truyền thống “giữ từng tấc đất” của tổ tiên.

Đằng sau việc lật lại lịch sử

Nhà Mạc, với Mạc Đăng Dung là vị vua sáng lập, gần như nhất quán bị sử Việt các thời phê phán:

  • Trần Trọng Kim (Việt Nam Sử lược) dùng từ “nghịch thần,” “không liêm sỉ,” “phản quốc.”
  • Lê Quý Đôn (Đại Việt thông sử) xếp Mạc Đăng Dung vào diện “nghịch thần”.
  • Phan Huy Chú (Lịch triều hiến chương loại chí) gọi nhà Mạc là “dị biệt,” “tiếm ngôi”.
  • Phan Bội Châu (Việt Nam Quốc sử khảo) lên án Mạc Đăng Dung giết vua, cắt đất dâng giặc.
  • Khâm định Việt sử thông giám cương mục của nhà Nguyễn cũng liệt Mạc Đăng Dung vào “ngụy triều,” “ngụy quan,” “ngụy chức.”

Những đánh giá này còn được duy trì đến giai đoạn hậu bán thế kỷ XX. Ví dụ, Lịch sử Việt Nam tập 1 (Ủy ban Khoa học – Xã hội Hà Nội, 1971, tái bản 1976) viết:

“…Họ Mạc dựa vào thế lực ngoại bang, đầu hàng, thỏa hiệp với nhà Minh… Độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ bị xóa bỏ bởi sự bất lực và hèn nhát của tập đoàn thống trị họ Mạc…”

Nghĩa là, dù bối cảnh chia cắt (Nam – Bắc, hay trước – sau 1975), quan điểm chung của giới sử học truyền thống đều xếp Mạc Đăng Dung vào loại cướp ngôi nhà Lê, quỳ gối dâng đất cho giặc. Sách giáo khoa hai miền cũng giảng tương tự.

Thế nhưng, khoảng cuối thế kỷ XX, đặc biệt sau năm 1990, một số nhà nghiên cứu bắt đầu “lật lại” vấn đề, bênh vực Mạc Đăng Dung. Ở Hải Phòng (đất tổ của nhà Mạc) có nhiều hoạt động vinh danh, trùng tu di tích nhà Mạc. Trong bối cảnh chính trị – ngoại giao phức tạp, không ít người e ngại việc “minh oan” này sẽ vô tình cổ vũ tư tưởng cam chịu, sợ hãi nước lớn, sẵn sàng dâng đất để tránh chiến tranh.

Đặc biệt, trong giai đoạn tranh chấp Biển Đông hiện nay, có quan điểm rằng hành vi của Mạc Đăng Dung nếu được “chấp nhận” như một phương cách “tránh xung đột” thì sẽ là tiền lệ tai hại cho công cuộc bảo vệ chủ quyền. Bởi lẽ, “giữ từng tấc đất, từng hòn đảo” đã trở thành nguyên tắc thiêng liêng của Việt Nam suốt bao đời.

Có người đặt câu hỏi: Việc Hà Nội đặt tên đường cho Mạc Thái Tổ, Mạc Thái Tông phải chăng cũng ẩn ý gì đó về một lập trường đối ngoại hay “dấu hiệu” mong muốn tránh căng thẳng? Dĩ nhiên, đây là suy đoán. Nhưng bối cảnh chung của lịch sử hiện tại, nhất là quan hệ với Trung Quốc, cũng khiến dư luận quan tâm.

Điều quan trọng là: Lịch sử không thể viết theo ý muốn chính trị nhất thời, mà phải có nền tảng chứng cứ, tôn trọng sự thật. Nếu “lịch sử” bị nhào nặn thành công cụ, xoay chiều vì ngoại giao, ắt khó thuyết phục nhân dân và hậu thế. “Dân ta phải biết sử ta,” như thế mới gạn lọc được bài học quý báu từ những lần thắng – bại, vinh – nhục trong suốt hàng nghìn năm gầy dựng bờ cõi.


Vương triều Mạc, với sự sáng lập của Mạc Đăng Dung, đã để lại nhiều tranh cãi về tính chính thống cũng như hành động “thần phục” phương Bắc. Các lập luận “minh oan” nhà Mạc một phần phản ánh nhu cầu lịch sử, tâm tư con cháu nhà Mạc, hay thậm chí cả những toan tính chính trị đương đại. Tuy nhiên, khi đối chiếu với nhiều nguồn sử liệu quan trọng, khó phủ nhận rằng nhà Mạc đã có những bước lùi sâu về mặt chủ quyền, để lại vết gợn trong lịch sử chống ngoại xâm. Mong rằng khi nhìn nhận hay “viết lại” lịch sử, người nghiên cứu vẫn luôn đặt lợi ích dân tộc, tinh thần thượng tôn chân lý, và lòng tự tôn đất nước lên hàng đầu.

5/5 - (2 votes)

cards
Powered by paypal

Đăng ký theo dõi trang để nhận thông báo bài viết mới hàng tuần

ĐỌC THÊM

Kim Lưu
Chào mọi người, mình là Kim Lưu, người lập Blog Lịch Sử này. Hy vọng blog cung cấp cho các bạn nhiều kiến thức hữu ích và thú vị.