Nguồn gốc dân tộc Việt Nam luôn là chủ đề muôn thuở, khơi gợi nhiều tranh luận sôi nổi giữa các nhà sử học trong nước và quốc tế. Lý do cho sự bất đồng này xuất phát từ lịch sử lâu đời của dân tộc ta, hình thành trước cả thời kỳ khoa học, nhân chủng học, địa dư học và sử học phát triển. Bên cạnh đó, trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt đã trải qua vô số biến động lịch sử, di chuyển từ lưu vực sông Nhị Hà, sông Mã đến bờ biển Tiêm La ngày nay.
Giả thuyết di cư từ Tây Tạng:
Nhiều nhà khảo cổ Pháp cho rằng người Việt Nam có nguồn gốc từ miền núi Tây Tạng, tương tự như người Thái. Qua các triều đại, họ di cư dần xuống Bắc Việt, sau đó di chuyển về phía Đông Nam và lập nên nước Việt Nam ngày nay. Theo giả thuyết này, người Thái di chuyển theo sông Cửu Long (Mêkong) để tạo lập nên nước Tiêm La, Mên và Lào. Cùng với đó, nhiều dân tộc khác từ các quần đảo Đông Nam di cư lên như Mã Lai, Phù Nam, Chiêm Thành cũng tập hợp trên bán đảo Đông Dương.
Giả thuyết từ Ấn Độ:
Một giả thuyết khác cho rằng người Việt thuộc giống Anhđô-nê-diêng (Indonésien) bị giống Ariăng (Aryens) đánh bạt khỏi Ấn Độ, buộc phải di chuyển qua bán đảo Hoa Ấn. Tại đây, họ chia thành hai nhánh:
- Nhánh thứ nhất di chuyển đến bán đảo Hoa Ấn, tiêu diệt thổ dân Mêla-nê-diêng (Mélanésien).
- Nhánh thứ hai di chuyển xuống Nam Dương quần đảo.
Tại mạn Bắc, người Việt hòa huyết với người Mông Cổ và chịu ảnh hưởng văn minh Trung Quốc. Ở mạn Nam, giống Anhđô-nê-diêng hợp thành giống Cao Mên và Chiêm Thành, chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. Nhánh ở mạn Bắc tiếp tục chia thành hai chi phái:
- Chi phái thứ nhất sinh sống ở Trung Châu sông Nhị Hà và các miền duyên hải. Nhờ điều kiện đất đai phì nhiêu và tiếp xúc với văn hóa Trung Quốc, chi phái này phát triển nhanh chóng.
- Chi phái thứ hai di chuyển lên các vùng cao nguyên, sinh sống hòa hợp với rừng núi và chịu ảnh hưởng của người Thái lân cận. Tuy nhiên, họ vẫn giữ được nền nếp cũ với các tổ chức và thể chế phong kiến. Nhóm người Mường hiện cư trú tại Hòa Bình và Nghệ An ngày nay được cho là di duệ của chi phái này.
Giả thuyết từ nước Việt thời Xuân Thu:
Dựa vào sách Tàu, ông Léonard Aurousseau cho rằng người Việt Nam thuộc dòng dõi người nước Việt đời Xuân Thu, dưới quyền Quốc vương Câu Tiễn (cuối thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên). Kinh đô của họ lúc bấy giờ là thành Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang ngày nay.
Năm 333 trước Công nguyên, nước Sở đánh bại nước Việt, buộc người Việt di chuyển xuống miền Nam và chia thành 4 phái:
- Đông Âu hay Việt Đông Hải thuộc miền Ôn Châu (phía Nam tỉnh Chiết Giang).
- Mân Việt tụ tập tại Phúc Châu tức Phúc Kiến.
- Nam Việt thuộc Quảng Đông và phía Bắc Quảng Tây.
- Lạc Việt hay Tây Âu Lạc ở phía Nam Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam ngày nay.
Việt Thường
Theo ông Đào Duy Anh, từ thời Nghiêu Thuấn, Hạ, Thương, người Hán sống quanh sông Hoàng Hà, sông Vị Thủy, thì miền Nam, dọc sông Dương Tử, sông Hán, sông Hoài có những giống người khác biệt văn hóa. Người Trung Hoa gọi họ là Man Di, sống ven sông, biển, đầm hồ, rừng hoang. Họ sống bằng nghề chài lưới, săn bắn, có tục xâm mình, cắt tóc ngắn. Người ta cho rằng họ xâm mình thành hình Giao Long để tránh bị Giao Long làm hại.
Từ đời Nghiêu Thuấn, một dân tộc khai hóa sớm là người Giao Chỉ đã giao thiệp với người Hán. Theo thư tịch, Giao Chỉ ở miền Hồ Nam ngày nay, gần hồ Động Đình và núi Nam Lĩnh.
Người Hán gọi nhóm Man Di đó là Giao Chỉ. Ban đầu người Giao Chỉ xâm mình thành hình Giao Long, dần dần tin họ là đồng chủng của Giao Long. Quan niệm “Tô Tem” bắt nguồn từ đây. Người Hán thấy họ có hình Giao Long, thờ Giao Long làm tổ nên gọi nơi họ ở là Giao Chỉ, tức miền đất của giống người Giao Long.
Một thuyết khác cho rằng người Giao Chỉ có tên này do hai ngón chân cái giao nhau.
Tuy nhiên, theo hai Bác sĩ P. Huard và Bigot, việc hai ngón chân cái giao nhau không phải đặc biệt, nhiều dân tộc Á Đông cũng có.
Bộ Từ Nguyên chép: Theo nghĩa cũ, Giao Chỉ là hai ngón chân cái giao nhau. Nhưng xét đời cổ bên Hy Lạp có tiếng đối trụ, lân trụ để gọi loài người trên thế giới (đối trụ là phía Nam phía Bắc đối nhau, lân trụ là phía Đông phía Tây liền nhau). Sở dĩ có tên Giao Chỉ là hợp với nghĩa đối trụ vì dân tộc phương Bắc gọi dân tộc phương Nam đối nhau, không phải thực là chân người giao nhau. (Chữ Giao Chỉ chép ở Sử Tầu trước nhất vào đời Thần Nông).
Ngoài nghề đánh cá, người Giao Chỉ ở đầm lầy hay đất bồi đã biết trồng trọt. Trong lúc này, ở khoảng giữa hồ Động Đình và hồ Phiên Dương từ đời Nghiêu Thuấn đã có giống người Tam Miêu biết nghề canh nông, và người Giao Chỉ đã ở trên một phần đất của người Tam Miêu. Căn cứ vào nghề đánh cá, nghề nông cùng chế độ vật tổ, người ta cho rằng người Giao Chỉ bấy giờ ít nhất cũng là ở cuối đời đá cũ và đầu đá mới, tuy chưa tìm được di tích sinh hoạt của họ. Còn về thời Nghiêu Thuấn, những đồ làm ruộng toàn bằng đá, dựa vào di vật đào được ở Ngưỡng Thiều tỉnh Hà Nam và lưu vực sông Hoàng Hà.
Người Việt Thường sống trong những ngôi nhà sàn bằng cây, tre hoặc nứa, dựng trên đầm hồ hay khe núi. Theo sách vở ghi chép, vào cuối đời Chu, nước Việt Thường ở phía Nam đất Giao Chỉ đã cống một con bạch trĩ cho Chu Thành Vương. Nước Việt Thường xuất hiện từ đầu đời nhà Chu, trên địa bàn cũ của nước Tam Miêu, với trung tâm là xứ Việt Chương. Vua Sở Hùng Cừ phong cho con út là Chấp Tỳ cai quản nơi đây. Nước Việt Thường bắt đầu suy yếu khi nước Sở thành lập ở Hồ Nam, Hồ Bắc và lấn đất về phía Tây.
Người Việt Thường sinh sống bằng nghề đánh cá, có tục xâm mình và thông thạo nghề nông. Theo sách Vũ Cống, miền châu Kinh và châu Dương có nhiều sản vật quý như vàng, bạc, gỗ quý, trúc, lông chim, da bò, ngà voi, da tê ngưu, vải gai… Người Việt Thường còn biết chế tạo đồ đồng đỏ, đạt trình độ kỹ thuật đá mới. Họ sống theo chế độ thị tộc và có tín ngưỡng “Tô Tem” như người Giao Chỉ.
Mối quan hệ giữa người Giao Chỉ và Việt Thường chưa được rõ ràng, chỉ biết rằng khi Việt Thường xuất hiện thì tên Giao Chỉ không còn được nhắc đến nữa. Địa bàn của Việt Thường bao gồm một phần Đông Nam của địa bàn người Giao Chỉ.
Cả hai nhóm người đều thuộc Việt tộc, sinh sống ở lưu vực sông Dương Tử, từ Vạn Huyện (nước Quí Việt) tỉnh Tứ Xuyên ra tới biển.
Dựa vào đặc tính văn hóa, có thể Việt tộc không chịu ảnh hưởng của chủng tộc Mông Cổ như người Hán. Tục xâm mình có thể là đặc điểm của các dân tộc thuộc giống Anhđô-nê-diêng ở miền Nam và Tây Nam Á Châu.
Theo các nhà nhân chủng học, người Anhđô-nê-diêng và giống Tạng Miến có nhiều điểm tương đồng, có thể do sự pha trộn hoặc lai giống. Hai nhóm người này có thể đã sống gần gũi nhau hoặc cùng xuất phát từ một nguồn gốc chung. Các nhà tiền sử học và ngôn ngữ học cho rằng từ miền A-Xam ở phía Bắc Ấn Độ trải qua Nam Bộ Trung Hoa xuống tới Nam Dương quần đảo có một thứ văn hóa hiện nay còn di tích trong các dân tộc Anhđô-nê-diêng. Do đó, có thể người Việt tộc xưa là một nhánh của chủng tộc Anhđô-nê-diêng, vốn đã có mặt ở hầu khắp miền Đông Nam Á Châu từ thời thái cổ.
Bách Việt
Nguồn gốc
Theo sử sách Trung Quốc, Bách Việt là một nhóm các bộ lạc sinh sống ở lưu vực sông Dương Tử và sau đó di cư xuống phía nam Trung Quốc. Truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra trăm trứng là một cách lý giải về nguồn gốc đa dạng của người Việt. Trên thực tế, Bách Việt bao gồm nhiều nhóm, nhiều bộ lạc sinh sống rải rác như các dân tộc thiểu số ngày nay. Đến đời nhà Chu, các bộ lạc này dần thống nhất do những biến thiên lịch sử, các bộ lạc nhỏ sáp nhập vào các bộ lạc lớn và hình thành nên năm nhóm lớn: Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt, Tây Việt và Lạc Việt. Sau này, ba nhóm Đông Việt, Mân Việt và Tây Việt bị đồng hóa bởi người Hán, chỉ còn lại Lạc Việt là tổ tiên của người Việt Nam ngày nay.
Nước Việt thời Câu Tiễn
Vào thế kỷ thứ 9 TCN, một số thị tộc người Việt ở Chiết Giang đã lập thành nước Việt do một nhà quý tộc họ Mị. Nước Việt ban đầu là một nước phụ dung của nước Ngô. Vua Ngô Hạp Lư vì tức giận vua Việt Doãn Thường không theo mình đi đánh nước Sở nên đã đem quân đánh nước Việt và giết chết Doãn Thường. Con trai Doãn Thường là Câu Tiễn đã quyết tâm trả thù và nhờ sự giúp đỡ của Văn Chủng và Phạm Lãi, Câu Tiễn đã đánh bại nước Ngô, trở thành bá chủ ở khu vực Giang Hoài. Nước Việt dưới thời Câu Tiễn trở nên hùng mạnh, mở rộng lãnh thổ và là một cường quốc trong khu vực.
đời sống vật chất và tinh thần
Người Việt thời kỳ này chủ yếu sống bằng nghề đánh cá, nông nghiệp còn chưa phát triển do đất đai xấu và kỹ thuật canh tác thô sơ. Họ trồng lúa nếp trên các vùng đất cao và sử dụng các loại thực phẩm như tôm cá, sò hến.
Về trang phục, người Việt sử dụng sợi gai, đay để dệt vải và biết dệt vải hoa. Họ biết pha đồng, thiếc để làm vũ khí. Các di vật đồng thau khai quật được ở Chiết Giang cho thấy kỹ thuật luyện kim của người Việt khá phát triển.
Người Việt sinh sống chủ yếu ở ven sông, ven biển nên rất giỏi bơi lội. Họ đóng được nhiều loại thuyền khác nhau như thuyền Linh, thuyền Đĩnh, thuyền Tụ lự, thuyền Lâu và thuyền Qua. Ba loại thuyền sau được sử dụng cho mục đích chiến tranh.
Về kiến trúc, người Việt sống trong nhà sàn bằng tre, gỗ và biết xây dựng thành, lăng mộ bằng đá và gạch.