Chính Sách Mỹ

Nước Mỹ “rệu rã” nhưng vẫn thắng thế

Mỹ vẫn dẫn đầu, còn đối thủ (Trung Quốc, Nga, châu Âu) đều đối mặt khủng hoảng già hóa, nợ nần, trì trệ.

nuoc my thoi trump

Trong mắt nhiều người, nước Mỹ đang “hỏng hóc” nghiêm trọng. Thăm dò cho thấy hai phần ba dân Mỹ tin rằng đất nước đang đi sai hướng, gần 70% đánh giá nền kinh tế là “không tốt” hoặc “kém”. Niềm tin công chúng vào chính phủ giảm một nửa so với năm 2000. Việc yêu nước cũng giảm mạnh: chỉ 38% người Mỹ coi lòng yêu nước “rất quan trọng”, so với 70% năm 2000.

Quốc hội thì phân cực cao nhất kể từ thời Tái thiết (Reconstruction), bạo lực đe dọa chính khách ngày càng tăng, và Donald Trump – cựu Tổng thống từng bị ám sát hai lần, bị nhiều người gán cho là “phát xít” – lại thắng phiếu phổ thông trên đường quay lại Nhà Trắng. Một số học giả so sánh nước Mỹ với Cộng hòa Weimar của Đức trước khi Hitler lên nắm quyền; số khác ví von Hoa Kỳ như Liên Xô những năm cuối đời, “già cỗi mục nát từ bên trong.” Cũng có người nói đất nước đang cận kề nội chiến.

Thế nhưng, nghịch lý thay, nước Mỹ bất ổn này lại duy trì và thậm chí củng cố sức mạnh đối ngoại. Tỉ trọng của Mỹ trong GDP toàn cầu xấp xỉ mức thập niên 1990, mà quyền chi phối các “huyết mạch” – năng lượng, tài chính, thị trường, công nghệ – còn mở rộng. Nước Mỹ lại đang gia tăng đồng minh, trong khi hai đối thủ chính, Trung Quốc và Nga, đều lao đao. Dẫu lạm phát, nợ khổng lồ và năng suất giảm là mối lo, các thách thức ấy vẫn kém nghiêm trọng hơn so với những rủi ro về kinh tế, dân số ở các cường quốc khác.

Đó chính là nghịch lý về quyền lực Mỹ: đất nước dường như luôn chia rẽ, luôn bị đánh giá là đang sa sút, song vẫn không ngừng thể hiện ngôi vị quốc gia giàu mạnh nhất thế giới, để lại các đối thủ ở phía sau.

Tại sao sự “thống trị” ấy vẫn được duy trì bất chấp rối loạn nội bộ? Bí quyết nằm ở những lợi thế nền tảng của Mỹ – như lãnh thổ rộng lớn, dân số năng động, thể chế phân quyền. Mặt khác, chính các yếu tố ấy cũng tạo ra hai lỗ hổng lớn: chia rẽ sâu sắc giữa đô thị và nông thôn (dẫn đến bất mãn, phân cực), và xu hướng “quá nhiều mục tiêu toàn cầu” nhưng không đầu tư đủ nguồn lực, khiến chính sách đối ngoại nửa vời, dễ dẫn đến xung đột tốn kém. Hai điểm yếu này có thể đe dọa ổn định và an ninh của Mỹ, nhưng đồng thời chính chúng đã và đang định hình “quyền lực đặc biệt” của nước này.

Nước Mỹ vẫn giữ vị thế áp đảo

Mỹ vẫn là “pháo đài” kinh tế, chiếm 26% GDP thế giới – tương đương thời “thời khắc đơn cực” đầu thập niên 1990. Năm 2008, quy mô kinh tế Mỹ ngang với Eurozone; giờ đây, kinh tế Mỹ gấp đôi. Mỹ lớn hơn 30% so với GDP cộng lại của toàn “phương Nam toàn cầu” (châu Phi, Mỹ Latinh, Trung Đông, Nam Á, Đông Nam Á) – cách đây một thập kỷ, con số chênh lệch chỉ 10%. Ngay cả kinh tế Trung Quốc cũng đang “thu hẹp” so với Mỹ tính theo đồng USD hiện hành; hơn nữa, Bắc Kinh được cho là “thổi phồng” số liệu. Tăng trưởng Trung Quốc ngày càng èo uột, người dân ồ ạt chuyển tiền và di cư ra nước ngoài. Từ năm 2021 đến 2024, hàng trăm tỉ USD đã “chảy” khỏi Trung Quốc bất hợp pháp, và số người Trung Quốc vượt biên ở biên giới phía Nam nước Mỹ tăng tới 50 lần trong giai đoạn này.

Mỹ cũng tiếp tục vượt xa về mức thu nhập bình quân. Năm 1995, người Nhật trung bình giàu hơn người Mỹ 50% (tính theo USD); nay người Mỹ giàu hơn người Nhật tới 140%. Nếu Nhật là một bang của Mỹ, nó sẽ xếp hạng nghèo nhất về lương bình quân, kém cả Mississippi – và Đức, Pháp, Anh cũng vậy. Từ 1990 đến 2019, thu nhập hộ gia đình Mỹ (sau thuế, trợ cấp, điều chỉnh lạm phát) tăng 55%. Riêng với nhóm thu nhập thấp nhất, tăng tới 74%. Sau đại dịch, nhiều nơi tiền lương giảm, nhưng lương thực tế ở Mỹ vẫn tăng nhẹ 0,9% (2020–24).

Những người thu nhập thấp và không sở hữu tài sản có cảm giác “thua thiệt” do giá nhà và thực phẩm cao, song đại bộ phận thực tế vẫn giàu hơn trước đại dịch. Từ 2019, lương tầng lớp lao động thấp tăng nhanh hơn hẳn nhóm trung lưu, thậm chí gấp nhiều lần so với nhóm thu nhập cao. Mỹ đang đảo ngược phần nào bất bình đẳng lương tích tụ hàng thập kỷ. Thế hệ “millennial” ở Mỹ (25–40 tuổi) kiếm trung bình cao hơn 10.000 USD so với các thế hệ trước ở cùng độ tuổi (đã tính lạm phát), và tỷ lệ sở hữu nhà của họ gần tương đương bố mẹ. Như vậy, một hộ gia đình trung lưu Mỹ thuộc nhóm “1–2% giàu nhất” toàn cầu về thu nhập.

Kết hợp quy mô dân số lớn với năng suất cao, Mỹ trở thành “siêu cường vật chất” không đối thủ. Nước đông dân như Trung Quốc hay Ấn Độ thì dân lại nghèo; còn giàu như Nhật, Đức thì quá nhỏ. Trong lịch sử, chỉ có những quốc gia vừa đông vừa năng suất, như Đế quốc Anh hay Mỹ thế kỷ 20, mới thành cường quốc thế giới.

Tất nhiên, vẫn có điểm yếu. Năng suất Mỹ (tính trên mọi nguồn lực) tăng chậm, nhưng dù sao vẫn dương; còn Trung Quốc, châu Âu thì âm. Tổng nợ Mỹ (chính phủ + hộ gia đình + doanh nghiệp) là 255% GDP (2024), lãi trả nợ liên bang chiếm 14% ngân sách, tiệm cận mức chi 18% cho quốc phòng. Nhưng tỷ lệ này vẫn thấp hơn mức trung bình của nhóm nước tiên tiến, thấp hơn cả Trung Quốc (nợ trên 300% GDP) và đã giảm 12% so với đỉnh 2021.

Về quyền “làm luật” toàn cầu, Mỹ lại củng cố mạnh. Đồng USD vẫn chiếm 60% dự trữ ngoại hối toàn cầu (giống mức 1995, chỉ giảm so với mức 68% năm 2004), 70% trong hoạt động ngân hàng xuyên biên giới, 90% trong giao dịch ngoại hối. Thế thống trị đồng USD cho phép Mỹ áp trừng phạt, vay chi phí thấp, buộc các nước “treo kinh tế” vào mình. Về năng lượng, Mỹ đã hóa từ nước nhập khẩu thành nước sản xuất dầu khí hàng đầu, vượt cả Nga, Ả Rập Saudi. Giá năng lượng nội địa rẻ, đặc biệt khi châu Âu đang gánh phí gấp 2–5 lần, nên nhiều công ty chuyển cơ sở sản xuất sang Mỹ.

Sau khi Nga xâm lược Ukraine, Mỹ giúp châu Âu bù đắp nguồn cung dầu khí. Về thị trường tiêu dùng, quy mô của Mỹ tương đương Trung Quốc + Eurozone cộng lại, giúp Washington răn đe hay lôi kéo đối tác dễ dàng. Về công nghệ, doanh nghiệp Mỹ chiếm hơn 50% lợi nhuận ngành công nghệ cao toàn cầu, Trung Quốc chỉ 6%. Mỹ vì thế nắm các “điểm siết” trong chuỗi cung ứng, sẵn sàng xiết chặt xuất khẩu chip sang Trung Quốc. Về quân sự, NATO kết nạp Phần Lan, Thụy Điển; ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, các liên minh AUKUS, Quad mở rộng tầm ảnh hưởng. Nhật – Hàn, Mỹ – Philippines sau căng thẳng nay xích lại gần nhau hơn. Tất cả mở rộng vòng vây đồng minh của Mỹ, bao vây các đối thủ ở Á – Âu.

Lý do cho sự “bất tử” của Mỹ

Phản bác: nhiều người cho rằng nước Mỹ chỉ “vỏ bọc hùng mạnh,” bên trong rệu rã, lưỡng đảng tê liệt, xã hội rạn nứt, sớm muộn sẽ sụp đổ. Nhưng lịch sử Mỹ cho thấy khủng hoảng nội bộ không hẳn làm xói mòn địa vị toàn cầu. Nội chiến đã qua dẫn đến giai đoạn Tái thiết, rồi bùng nổ công nghiệp. Sau suy thoái tài chính cuối thế kỷ 19, Washington “vươn ra thế giới.” Đại Suy thoái 1930s châm ngòi Chính sách Kinh tế Mới (New Deal), Thế chiến II đánh dấu khởi đầu “thế kỷ Mỹ.” Thập niên 1970, khủng hoảng lạm phát, thất bại Việt Nam và Iran, cuối cùng lại đưa Mỹ đến thắng lợi Chiến tranh Lạnh và bùng nổ công nghệ 1990s. Đầu thế kỷ 21, hai cuộc chiến Afghanistan, Iraq và khủng hoảng 2008 làm người ta báo động “Mỹ suy tàn,” nhưng 20 năm sau, “thế kỷ Mỹ” vẫn tiếp diễn.

Bí quyết là những thế mạnh mang tính cơ cấu:

  • Vị trí địa lý: nước Mỹ như “pháo đài” cô lập, vừa có nhiều tài nguyên, vừa được đại dương che chở, lại thông thương dễ dàng với châu Âu, châu Á. Trong khủng hoảng, đồng vốn quốc tế có xu hướng đổ vào Mỹ như một “bến cảng an toàn.”
  • Hấp dẫn nhân tài: Mỗi năm, hàng chục ngàn khoa học gia, kỹ sư, doanh nhân nước ngoài đổ về. Đối với lao động phổ thông, người nhập cư tuy cạnh tranh lương với người bản địa, nhưng cũng giúp lấp đầy vị trí thiết yếu trong bán lẻ, nông nghiệp, y tế… Tỷ lệ sinh cao, kết hợp nhập cư trên 1 triệu người/năm, giúp Mỹ duy trì nguồn nhân lực trẻ, khác hẳn Trung Quốc, Nhật, châu Âu đang già, giảm dân số.
  • Hệ thống chính trị phi tập trung: Dù liên bang bế tắc, các bang, địa phương, tư nhân vẫn năng động. Mỹ xếp hạng cao về sáng tạo, dễ kinh doanh, thủ tục đăng ký bất động sản, hợp đồng… nhanh gọn. Tỷ lệ khởi nghiệp gấp 2–3 lần Đức, Ý, Nhật. Người lao động Mỹ làm việc nhiều giờ, năng suất cao, dễ dàng sa thải – tuyển mới, tạo linh hoạt thị trường. Tỷ lệ thất nghiệp đã nhanh chóng quay về 4% sau đại dịch và duy trì ở mức thấp kỷ lục.
  • Khả năng hấp thụ và phổ biến công nghệ: Lịch sử cho thấy Mỹ thường không phát minh đầu tiên, nhưng ứng dụng rộng rãi hơn. Từ cách mạng hơi nước, hóa học, kỹ thuật số… Mỹ luôn nhân rộng tiến bộ khoa học thành bùng nổ kinh tế, vượt mặt nước phát minh ban đầu. Hiện nay, Trung Quốc đổ tiền khổng lồ vào công nghệ, nhưng mô hình tập trung, thiếu cạnh tranh, hay “bơm thổi” một vài ngành “chủ chốt” khiến phần lớn nền kinh tế chưa được hiện đại hóa. Trong khi đó, doanh nghiệp, trường đại học, quỹ đầu tư mạo hiểm Mỹ tạo thành hệ sinh thái chuyển giao công nghệ cực nhanh.

Phân cực xã hội: Thịnh vượng đi kèm tan rã

rất giàu, nước Mỹ vẫn tồn tại khoảng cách bất bình đẳng không nhỏ. Tỷ lệ nghèo giảm từ 26% (1967) xuống 10% (2023) song vẫn cao hơn Tây Âu; bạo lực gấp 4–5 lần. An sinh xã hội tập trung cho người già, trong khi hỗ trợ cho người trong độ tuổi lao động, giáo dục mầm non, dạy nghề… còn thấp. Vì thế, sự phân hóa rất rõ: người giàu nhất thì “top đầu thế giới,” kẻ nghèo nhất lại “dễ rơi vào nghèo đói.” Gần đây, khoảng cách thu nhập chủng tộc có dấu hiệu thu hẹp, song vẫn khá lớn, gây chia rẽ chính trị sâu sắc.

Rạn nứt nghiêm trọng nhất là giữa đô thị và nông thôn. Đây là sản phẩm của chính những yếu tố làm Mỹ thịnh vượng: quy mô lục địa, thể chế phân quyền, nhập cư thu hút nhân lực. Các thành phố được lợi từ toàn cầu hóa, kinh tế dịch vụ, công nghệ… Còn vùng nông thôn mất đi động lực công – nông – công nghiệp truyền thống. Họ vẫn có quyền lực chính trị ngoài tỷ lệ dân số (thông qua Thượng viện, Cử tri đoàn), khiến mâu thuẫn càng căng. Lịch sử cho thấy chia rẽ “thành thị – nông thôn” đã ăn sâu: nội chiến Bắc – Nam, thời kỳ vàng son rồi khủng hoảng… Đến cuối thế kỷ 20, tự do thương mại (NAFTA) và “cú sốc Trung Quốc” đã “hạ gục” nhiều nhà máy miền Trung Tây, khiến hàng triệu việc làm biến mất. Nông thôn càng phụ thuộc vào công việc chính quyền địa phương, nhưng lại cắt giảm khi thu ngân sách sụt, dẫn đến “vòng luẩn quẩn.” Trong khi đó, người nhập cư vào thành thị, lương thấp, cũng tạo cạnh tranh thêm cho lao động bản địa.

Hệ quả: vùng nông thôn có phố xá xập xệ, bệnh viện đóng cửa, dân chết nhiều hơn sinh. Từ 1999 đến 2019, tử vong do bệnh mãn tính tăng vọt ở nông thôn, chênh lệch 43% so với đô thị. Tự tử tăng 44%, tử vong liên quan rượu tăng 24%. Tuổi thọ nông thôn thấp hơn đô thị hai năm, 41% khu vực nông thôn đang dần “teo” dân do giới trẻ bỏ sang thành phố.

Biến đổi chính trị: năm 1992, chênh lệch ủng hộ đảng Cộng hòa giữa nông thôn và đô thị chỉ 2%. Đến 2020, nông thôn nghiêng Cộng hòa hơn đô thị 21%. Năm 2022, có 68% cử tri đô thị bỏ phiếu cho Dân chủ, 69% nông thôn ủng hộ Cộng hòa. Trong bầu cử 2024, Trump thắng nông thôn với cách biệt gấp đôi so với 2020 (từ 15% lên 30%). Sự phân hóa này trùng với chủng tộc, tuổi tác, tôn giáo… Cử tri nông thôn hầu hết là người da trắng, lớn tuổi, ít học hơn, theo Cơ đốc giáo, ủng hộ Cộng hòa. Công nhân không bằng đại học (đặc biệt nam giới) dần trở thành cốt lõi của đảng Cộng hòa, trong đó không ít đàn ông gốc Latino. Còn Dân chủ chủ yếu dựa vào người có học, da màu, phụ nữ, trẻ, thế tục…

Tình trạng phân cực và “phủ quyết lẫn nhau” trong lập pháp đe dọa tính ổn định. Sau bầu cử 2020, một số thống đốc Cộng hòa ra luật hạn chế bỏ phiếu. Phía Dân chủ thì bất mãn, đòi xóa bỏ Cử tri đoàn, mở rộng Tối cao Pháp viện… Trump 2024 đã giành thắng lợi nhờ liên minh lao động đa sắc tộc, có thể buộc đảng Cộng hòa chú trọng hơn đến chính sách cải thiện vùng nông thôn: Internet, hạ tầng, y tế, ưu đãi doanh nghiệp… Song mâu thuẫn gốc giữa đô thị – nông thôn vẫn là ngòi nổ chính trị, đe dọa đoàn kết quốc gia.

Sức mạnh dễ thoái hóa thành “chính sách nửa vời”

Nghịch lý thứ hai: Lợi thế địa lý, dân số, thể chế khiến Mỹ có xu hướng đảm đương nhiều lợi ích toàn cầu, nhưng lại không đầu tư đủ để ngăn xung đột. “Speak softly and carry a big stick” (T. Roosevelt) được Mỹ hiện nay “đảo ngược”: hay “nói mạnh, nhưng gậy nhỏ,” dẫn đến chính sách trừng phạt, bắn tên lửa, thiếu cam kết sâu. Kiểu này làm nản đồng minh, kích động đối thủ, xung đột leo thang. Mỹ vừa quá thờ ơ khi hòa bình, vừa có thể “phản ứng thái quá” khi chiến tranh bùng nổ, sa lầy trong cuộc chiến như ở Afghanistan, Iraq.

Vì được hai đại dương che chắn, kinh tế Mỹ lại tự chủ (xuất khẩu chỉ 11% GDP), người Mỹ thường hờ hững với đối ngoại, trừ khi mối đe dọa hiển hiện. Chính quyền liên bang lại phân quyền, các nhóm lợi ích, giới truyền thông, cộng đồng di cư… đều gây áp lực cho chính sách ngoại giao. Từ đó hình thành “chủ nghĩa quốc tế nửa vời,” đôi khi dẫn đến thảm họa khi Mỹ “bắn tín hiệu sai.”

Lịch sử có vô số ví dụ:

  • Sau Thế chiến I, Mỹ ký Hiệp ước Kellogg-Briand cấm chiến tranh, nhưng không tham gia Hội Quốc Liên, rút quân khỏi châu Âu, đòi nợ chiến phí từ đồng minh, góp phần đẩy nước Đức vào khủng hoảng, rơi vào tay Hitler. Ở châu Á, cắt giảm hải quân nhưng lại cấm vận Nhật, khiến Tokyo coi Washington vừa yếu vừa hiếu chiến, mở đường tấn công Trân Châu Cảng.
  • Sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ mở rộng NATO gấp đôi số thành viên, song giảm một nửa quân đồn trú ở châu Âu, khiến Nga “phẫn nộ” nhưng không “răn đe” nổi họ. Georgia, Ukraine được hứa hẹn gia nhập NATO nhưng không có lộ trình rõ, Nga thấy “cứ việc lấn tới.”
  • Hay kịch bản “bỏ mặc, rồi phản ứng quá mức”: năm 1949, Mỹ xem bán đảo Triều Tiên ngoài vòng phòng thủ, Triều Tiên tấn công thì Mỹ can thiệp mạnh, đẩy lên sát biên giới Trung Quốc, châm ngòi đánh trả, và tiếp đó là nỗi ám ảnh domino dẫn đến chiến tranh Việt Nam. Năm 1990, không răn đe trước việc Iraq xâm lược Kuwait, nhưng sau đó xung trận kịch liệt, gây nên Chuỗi chiến tranh Vùng Vịnh, khủng bố Al Qaeda…

Nay thế giới đối mặt mối đe dọa giao thoa: Trung Quốc tăng cường quân đội nhanh nhất lịch sử thời bình, Nga gây chiến ở châu Âu, Iran đụng độ Israel, Triều Tiên đưa lính sang giúp Nga ở Ukraine và phát triển tên lửa bắn tới Mỹ. Dù vậy, Mỹ vẫn chi tiêu quốc phòng chỉ 2,7% GDP – thấp tương đương thời 1930s (chủ nghĩa cô lập) và 1990s (hậu Chiến tranh Lạnh). Tuyển quân khó khăn; 77% thanh niên không đủ tiêu chuẩn (béo phì, ma túy, bệnh tật), chỉ 9% muốn nhập ngũ. Nếu nổ chiến tranh với Trung Quốc, kho vũ khí Mỹ cạn trong vài tuần, và việc tái sản xuất cần vài năm. Mỹ tiếp tục thách thức đối thủ, nhưng lực lượng thiếu chuẩn bị, vô hình trung kích động đối thủ hành động.

Sợ suy tàn: Lối tư duy sai lầm

Từ khi Liên Xô tan rã, nhiều chuyên gia cho rằng thế giới sẽ đa cực, Mỹ sớm bị vượt qua. Nhưng tình thế cho thấy: Mỹ vẫn dẫn đầu, còn đối thủ (Trung Quốc, Nga, châu Âu) đều đối mặt khủng hoảng già hóa, nợ nần, trì trệ. Không quốc gia nào có thể “trỗi dậy” mạnh như Mỹ thế kỷ trước. Cuộc cách mạng công nghiệp gây bùng nổ dân số, sản xuất, dẫn đến thế kỷ bành trướng. Nay dân số già, năng suất giảm, thế “vươn lên” của các cường quốc khác khó xảy ra. Dù Trung Quốc, Iran, Nga, Triều Tiên đôi khi gọi là “trục,” nhưng không thể so sánh phe Phát xít 1942. Một khi cường quốc suy yếu, khó hồi phục vì dân số co lại.

Dù vậy, nguy cơ vẫn có khi các nước suy tàn trở nên “liều lĩnh,” châm ngòi chiến tranh “đòi lại lãnh thổ.” Nga đã làm điều đó tại Ukraine; Trung Quốc có thể liều với Đài Loan hoặc Philippines… Xung đột quy mô lớn khó bằng Thế chiến II, song vẫn nguy hiểm, có thể gắn vũ khí hạt nhân. Trong khi đó, nhiều nước nghèo chìm trong nợ, thiếu việc làm, nguy cơ “thất bại nhà nước,” tạo làn sóng di cư tràn sang các nước giàu, vô tình đẩy chủ nghĩa cực đoan trỗi dậy. Hồi 2015, khủng hoảng tị nạn Syria đã làm cánh hữu châu Âu mạnh lên. Dân chủ có thể suy yếu khi kinh tế bế tắc, dân số suy giảm, khủng hoảng di cư.

Để tránh kịch bản tồi tệ, Mỹ cần nhận rõ mình vẫn mạnh, tránh rơi vào vòng xoáy “hoảng loạn suy tàn.” Sự hoang mang dễ dẫn đến bài ngoại, bảo hộ. Nước Mỹ vốn dựa vào thương mại tự do, thu hút nhân tài, tạo trật tự liên minh. Nếu tin rằng mình suy tàn, Mỹ có thể trở thành “siêu cường hung hãn,” dùng thuế, trừng phạt, ép đồng minh phải “nộp phế,” hạn chế di cư… Lợi ích ngắn hạn có thể có, nhưng về lâu dài làm thế giới nghèo hơn, thiếu hợp tác về hạt nhân, khí hậu, dịch bệnh… Càng hủy hoại trật tự.

Nguy hiểm hơn, nếu Mỹ tự đánh giá bản thân yếu, kẻ thù có thể hiểu lầm, dẫn đến quyết định manh động. Nhiệm vụ của Washington là xác định rõ mục tiêu cốt lõi: ngăn chặn Trung Quốc, Iran, Nga, Triều Tiên thôn tính láng giềng. Lịch sử cho thấy sau Thế chiến I, Mỹ thoái lui, dẫn đến Thế chiến II. Sau Thế chiến II, duy trì liên minh giúp Mỹ thắng Chiến tranh Lạnh mà không cần đối đầu vũ trang với Liên Xô. Thành công đòi hỏi “sức mạnh + ngoại giao”: răn đe, nhưng tạo cửa cho đối thủ tái hội nhập nếu từ bỏ bành trướng.

Như hồi Chiến tranh Lạnh, Mỹ “chờ” Liên Xô suy yếu từ bên trong. Hiện nay, Trung Quốc chững lại, dân số giảm, Nga đuối ở Ukraine, Iran bị Israel cầm chân… Trong 10–20 năm, loạt lãnh đạo già nua (Tập, Putin, Khamenei) hết nhiệm, có thể có thay đổi. Nhiệm vụ của Mỹ là duy trì kiềm tỏa, thu hút dân tài năng từ các nước ấy, thúc đẩy giao lưu để làm “mòn” nền tảng đối thủ. Tất nhiên, họ không “hiền lành” ngay, nên xung đột còn kéo dài. Muốn vượt qua, Mỹ phải đoàn kết nội bộ. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, việc làm ở khu vực yếu, kêu gọi ý thức trách nhiệm công dân. Giữ vững sức mạnh quân sự vừa đủ, song luôn mở đường đàm phán. Nhờ vậy, Mỹ vừa thể hiện trách nhiệm siêu cường, vừa tránh những “phản ứng cực đoan.”

Nói cách khác, thay vì hoảng loạn trước những hỗn loạn nội tại, Mỹ nên hiểu cấu trúc nền tảng của mình vẫn bền vững. Họ có trách nhiệm sử dụng quyền lực này một cách khôn ngoan trước sóng gió toàn cầu. Nếu không, nghịch lý “quyền lực Mỹ sinh ra từ rối loạn Mỹ” có thể sụp đổ, kéo thế giới vào vòng xoáy cực kỳ bất ổn.

Rate this post

MỚI NHẤT