Hy Lạp Cổ Đại

Socrates – Cuộc đời và Tư tưởng

Socrates là triết gia lỗi lạc bậc nhất trong thế giới cổ đại, được xem là cha đẻ triết học phương Tây. Chúng ta biết gì về ông?

Socrates là triết gia lỗi lạc bậc nhất trong thế giới cổ đại, được xem là cha đẻ triết học phương Tây. Chúng ta biết gì về ông?
14 views

Socrates (khoảng 470-399 TCN) quê ở Athens, là nhân vật nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử thế giới. Đóng góp của ông cho triết học Hy Lạp cổ đại đã đặt nền móng cho triết học phương Tây sau này. Có thể nói, ông chính là “Cha đẻ của triết học phương Tây”.

Socrates xuất thân là một điêu khắc gia, từng làm qua nhiều nghề (bao gồm cả đi lính) rồi được Cô đồng đền Delphi tiên đoán ông sẽ là người thông thái nhất thế giới. Để chứng minh nhà tiên tri đã sai, ông bắt đầu sự nghiệp mới bằng việc đặt câu hỏi cho những người được xem là uyên bác. Nhưng qua đó, ông đã vô tình chứng minh nhà tiên tri nói đúng: Socrates là người uyên bác nhất thế giới vì ông không tự nhận mình biết bất kỳ điều gì quan trọng.

Học trò nổi danh nhất của ông là Plato (khoảng 424/423-348/347 TCN). Plato lập một ngôi trường ở Athens (Học viện Plato) để vinh danh thầy. Quan trọng hơn, ông soạn những cuốn đối thoại triết học với Socrates là nhân vật trung tâm. Sách có phản ánh đúng triết lý của Socrates hay không vẫn là một đề tài tranh luận, có lẽ sẽ chẳng bao giờ đi đến một kết luận thống nhất. Aristotle xứ Stagira (384-322 TCN), một triết gia nổi tiếng khác, là học trò xuất sắc nhất của Plato, và sau này là thầy của Alexander Đại đế (356-323 TCN), và cũng mở trường học. Nhờ vào sự truyền thừa này, triết học Hy Lạp do Socrates khởi nguồn lan rộng khắp thế giới, theo gót giày chinh phạt của Alexander.

Socrates là một nhân vật có thật, điều đó không ai chối cãi. Nhưng triết học nguyên thủy của ông như thế nào thì ta không thể chắc chắn, tương tự như giáo lý của Chúa Jesus. Bởi vì bản thân ông không tự biên soạn bất kỳ tác phẩm nào.

Dù Socrates được coi là người khai sinh ra triết học phương Tây, hầu hết những gì chúng ta biết về ông đều đến từ Plato, một số từ Xenophon (khoảng 430-khoảng 354 TCN), học trò khác của ông. Cũng có những nỗ lực để tái dựng lại tư tưởng triết học của Socrates dựa trên nhiều trường phái khác, ngoài trường phái của Plato, do các môn sinh của ông sáng lập, tuy nhiên những trường phái này quá đa dạng để có thể xác định được đâu là triết thuyết gốc đã truyền cảm hứng cho họ.

Theo nhà sử học Diogenes Laertius (khoảng 180-240 SCN), nhiều người cùng thời với Plato phê phán Plato tái hiện Socrates theo hình ảnh chính mình để dễ dàng truyền đạt tư duy triết học của bản thân.

Dù thế nào thì tầm ảnh hưởng của Socrates, thông qua các trường phái, đã định hình không chỉ triết học mà cả nền văn minh phương Tây sau này.

Thiếu thời

Socrates sinh vào khoảng năm 469/470 Trước Công Nguyên. Cha ông, Sophronicus, là một nhà điêu khắc và mẹ ông, Phaenarete, hành nghề hộ sinh. Thời trẻ, ông học nhạc, thể dục và ngữ pháp (những môn học phổ biến của thanh niên Hy Lạp) rồi nối nghiệp cha.

Truyền thuyết cho ta hay ông là một nghệ nhân xuất sắc. Tác phẩm điêu khắc “Chư Thần Ân Sủng” của ông tuyệt vời đến mức tận thế kỷ thứ 2 người ta vẫn còn nhắc tới.

Socrates cũng là một quân nhân tận tụy, từng cứu mạng tướng Alcibiades trong Trận Potidaea.

Ông kết hôn với Xanthippe, một phụ nữ thượng lưu, khi đã khoảng 50 tuổi. Sinh được ba con trai. Theo các tác gia đương thời như Xenophon, con cái ông chậm chạp, hoàn toàn không sáng dạ như cha.

Socrates sống cuộc đời bình dị cho tới khi được cô đồng đền Delphil ban sấm rằng ông là người thông minh nhất trần gian. Lời sấm thôi thúc ông trở thành một triết gia, mở màn cho sự ra đời của Triết học Phương Tây.

Lời sấm về Socrates

Ở độ tuổi trung niên, người bạn Chaerephon của Socrates đã hỏi Cô đồng đền Delphi rằng có ai trên đời khôn ngoan hơn Socrates không?

Cô đồng đáp: “Không ai cả”.

Câu trả lời khiến Socrates hoài nghi. Về để kiểm chứng, ông chu du khắp các thành bang, chất vấn những người được cho là “khôn ngoan” đương thời về các vấn đề triết lý.

Ông thất vọng khi nhận ra “những người càng được tiếng khôn ngoan thì lại càng ngô nghê, còn những người bị coi là tầm thường thì thông thái hơn nhiều” (Plato, Apology, 22)

Giới trẻ Athens thích thú khi xem Socrates chất vấn các bậc trưởng bối trong khu chợ, và chẳng mấy chốc, ông có một nhóm thanh niên đi theo. Quu cách nêu gương và lời dạy dỗ, Socrates khiến họ từ bỏ những ngông cuồng và cống hiến bản thân cho triết học (trong tiếng Hy Lạp ‘Philo’ có nghĩa là tình yêu, còn ‘Sophia’ có nghĩa là sự khôn ngoan – dịch sát nghĩa là ‘tình yêu dành cho sự khôn ngoan).

Trong số đó có Antisthenes người Athens (khoảng 445-365 Trước Công Nguyên), người sáng lập trường phái hoài nghi, Aristippus người Cyrene (khoảng 435-356 Trước Công Nguyên), sáng lập trường phái Cyrene, Xenophon – người mà các tác phẩm của ông sẽ ảnh hưởng đến Zeno người Citium (khoảng 336-265 Trước Công Nguyên), sáng lập trường phái Khắc Kỷ, và nổi tiếng nhất là Plato (nguồn thông tin chính của chúng ta về Socrates trong tác phẩm Dialogues).

Ta có thể thấy, tất cả các trường phái triết học lớn được các nhà văn cổ đại nhắc đến sau cái chết của Socrates đều do môn đệ của ông khai mở.

Nhà lao giam giữ Socrates tại Athens

Các trường phái Socrates

Sự đa dạng các trường phái lấy cảm hứng từ Socrates chứng minh cho tầm ảnh hưởng to lớn của ông, và phản ánh sự phong phú trong cách thế giới tiếp nhận triết lý của Socrates.

Antisthenes tin rằng sống tốt là phải kỷ luật và tiết chế (Khắc Kỷ), còn Aristippus lại khẳng định rằng tận hưởng lạc thú mới đáng sống (Lạc Thú).

Người ta vẫn thường nói rằng đóng góp lớn nhất của Socrates là ông đã đưa tranh luận triết học ra khỏi phạm trù “khoa học tự nhiên” (như những nhà triết học Tiền-Socrates Thales, Anaximander, Anaximenes từng theo đuổi), và dẫn dắt triết học tiến vào thế giới trừu tượng của đạo đức và luân lý. Bất kể trường phái nào lấy ông làm cảm hứng, điểm chung cốt lõi là chúng đều có một nền tảng đạo đức nào đó. Thậm chí, những “đạo đức” của các phái công kích lẫn nhau, càng chứng minh cho góc nhìn đa chiều về tư tưởng trung tâm của Socrates.

Giới nghiên cứu dựa nhiều vào các tác phẩm Dialogues của Plato để nghiên cứu về Socrates. Nhưng những người cùng thời Plato lại cho rằng ông đã mượn hình tượng “Socrates” để truyền tải tư tưởng bản thân. Đáng chú ý trong số đó là Phaedo (bạn học với Plato và nổi danh trong một cuộc đối thoại quan trọng của Plato, tuy nhiên tác phẩm của Phaedo đã bị thất lạc), và Xenophon, người đã khắc họa Socrates trong cuốn Memorabilia khác hẳn so với cách Plato thể hiện.

Socrates và Tầm Nhìn Của Ông

DÙ ĐƯỢC HIỂU THEO CÁCH NÀO, TRỌNG TÂM CỦA SOCRATES DƯỜNG NHƯ LUÔN NẰM Ở CÁCH SỐNG TỐT VÀ ĐẠO ĐỨC

Câu nói được Plato gắn cho Socrates rằng “một cuộc sống không được suy xét thì không đáng sống” (Apology, 38b) có lẽ khá sát với thực tế. Rõ ràng là Socrates đã truyền cảm hứng để các môn đồ dám suy nghĩ độc lập, thay vì răm rắp tuân theo quy tắc xã hội và niềm tin tín ngưỡng mù quáng.

Dẫu cách miêu tả trong tác phẩm của Plato và Xenophon có điểm khác nhau, cả hai đều khắc họa một Socrates chẳng màng đến giai cấp, lễ nghi, một người đối thoại với phụ nữ, người hầu, nô lệ cũng nhiệt thành như khi trò chuyện với tầng lớp thượng lưu.

Ở Athens cổ đại, có một khái niệm gọi là “Eusebia” thường được dịch là “lòng mộ đạo“, dùng để chỉ sự gắn bó, trung thành với bổn phận. Socrates, khi nhất quyết không tuân thủ những khuôn mẫu do Eusebia đặt ra, đã chọc giận nhiều người quyền thế, và họ hoàn toàn có quyền buộc tội ông phá vỡ luật pháp vì làm bại hoại thuần phong mỹ tục.

Vụ xét xử Socrates

Năm 399 Trước Công Nguyên, Socrates bị bà người gồm Meletus – một nhà thơ, Anytus – một thợ thuộc da, và Lycon – một nhà hùng biện buộc tội phạm thượng (phỉ báng thần linh). Ba người này muốn Socrates phải chịu án tử hình. Bản cáo trạng ghi rõ: “Socrates phạm hai trọng tội, một là không tôn trọng những vị thần được nhà nước công nhận và đưa vào những vị thần mới, hai là tội làm băng hoại giới trẻ.”

Có ý kiến cho rằng vụ án này ẩn chứa cả động cơ cá nhân lẫn chính trị, vì lúc bấy giờ Athens đang nỗ lực thanh trừng những kẻ có liên quan đến Tai ương Ba Mươi Bạo Chúa – một chế độ vừa bị lật đổ. Mối quan hệ của Socrates với chế độ này nằm ở người học trò cũ của ông, Critias. Critias được coi là kẻ tồi tệ nhất trong số Ba Mươi Bạo Chúa, và người ta tin rằng chính Socrates đã dẫn dắt hắn vào con đường tha hóa.

Ngoài ra, khi phân tích đoạn đối thoại Meno của Plato, người ta tin Anytus cũng quy tội cho Socrates vì đã làm hư hỏng con trai ông ta. Anytus muốn con trai theo nghiệp chính trị, nhưng cậu ta bị triết lý của Socrates thu hút và bỏ mặc ý cha. Mặc dù phe buộc tội Socrates không đưa Critias làm chứng, nhưng dường như bồi thẩm đoàn đã có sẵn định kiến như vậy.

Cái Chết của Socrates [The Death of Socrates by Jacques-Louis David (1748-1825) (Phạm vi công cộng)]

Socrates phớt lờ lời khuyên của bạn bè và từ chối sự giúp đỡ của Lysias, một nhà viết diễn văn tài năng. Socrates quyết định tự bào chữa cho mình tại tòa. Ở Athens cổ đại không có luật sư, thay vào đó người ta sẽ thuê một người viết diễn văn để biện hộ. Lysias là một trong những nhà viết được trả hậu hĩnh nhất, nhưng vì ngưỡng mộ Socrates, ông đề nghị giúp đỡ miễn phí.

Trong phiên tòa xét xử, người viết biện hộ thường sẽ giới thiệu bị cáo như một người tốt đã bị oan sai. Đây cũng là kiểu bào chữa mà tòa án mong đợi từ Socrates. Tuy nhiên, thay vì bào chữa cho bản thân và van xin được sống, Socrates đã cả gan chống lại tòa án Athens, khẳng định sự vô tội của mình và tự nhận mình là “ruồi trâu” của thành bang – một kẻ luôn tìm cách đánh thức và giữ cho người dân tỉnh táo. Trong tác phẩm Apology (Lời Bào Chữa), Plato ghi lại lời của Socrates:

“Nếu các vị giết tôi, các vị sẽ không dễ tìm được một người khác đóng vai con ruồi trâu, luôn bám chặt lấy con ngựa to lớn, thuần chủng nhưng hơi chậm chạp này để đánh thức nó dậy. Dường như chư thần đã đặt để tôi vào thành bang này với sứ mệnh đó – không ngừng thức tỉnh, thuyết phục và trách móc tất cả các vị cả ngày dài.” (Apology 30e)

Plato cho thấy rõ các cáo buộc chống lại Socrates chẳng có mấy trọng lượng, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh sự coi thường của Socrates đối với bồi thẩm đoàn và các thủ tục xét xử. Socrates từ chối giúp đỡ của biện sư chuyên nghiệp, không thèm hành xử đúng mực mà một bị cáo trong phiên xử tử hình được kỳ vọng. Theo Plato, Socrates không sợ chết, ông đã tuyên bố trước tòa:

“Này các bạn, sợ chết chỉ là ngộ nhận rằng mình thông thái, vì đó là nghĩ rằng ta biết những điều ta không biết. Chẳng ai biết liệu cái chết có phải điềm lành cho con người hay không. Nhưng người ta cứ sợ nó như biết chắc rằng đó là điều xấu xa nhất. ” (Apology 29a)

Sau đoạn này, Plato ghi lại lập trường triết học nổi tiếng của Socrates. Ông kiên quyết chọn phục vụ điều mình tin là chân lý, thay vì tuân theo luật lệ xã hội. Socrates thẳng thắn nói với các công dân Athens:

“Hỡi người Athens, tôi kính trọng và yêu quý các vị, nhưng tôi thà nghe theo chư thần còn hơn nghe theo các vị. Chừng nào còn sống và còn sức khỏe, tôi sẽ không bao giờ thôi thực hành và giảng dạy triết học. Tôi sẽ khuyên nhủ bất cứ ai tôi gặp, theo cách của mình: Này người bạn, công dân của thành Athens vĩ đại, tại sao ngài lại quá bận tâm kiếm thật nhiều tiền, danh dự và tiếng tăm nhưng lại chẳng màng đến trí tuệ, sự thật và cách để hoàn thiện tâm hồn mình? Ngài không thấy xấu hổ sao? Nếu người đó trả lời: Có, tôi có quan tâm; thì tôi sẽ không bỏ đi. Tôi sẽ tra hỏi, kiểm tra, chất vấn họ, và nếu nghĩ rằng họ không có đức hạnh mà chỉ giả vờ, tôi sẽ trách họ vì coi trọng những thứ tầm thường. Tôi sẽ nói điều này với tất cả những người tôi gặp, già trẻ, người dân hay dân ngoại bang, nhưng đặc biệt là với người dân Athens, vì họ là đồng bào của tôi. Đây là mệnh lệnh của chư thần, và tôi tin rằng chưa có điều gì tốt đẹp hơn xảy đến với thành bang này như việc tôi phụng thờ chư thần.” (29d-30c)

Khi phải đề nghị một hình phạt thay cho án tử, Socrates nói rằng ông xứng đáng được vinh danh bằng những bữa ăn miễn phí tại Prytaneum – nơi dành cho các anh hùng Thế vận hội Olympic. Điều này được coi là sự sỉ nhục nghiêm trọng đối với danh dự của Prytaneum và của thành Athens. Bị cáo trong các phiên tòa xét xử tử hình phải cầu xin lòng thương xót chứ không phải tự cho mình xứng đáng với vinh quang dành cho anh hùng.

Kết tội

Socrates đã bị kết án án tử. (Xenophon nói rằng, dường như Socrates mong muốn điều này xảy ra, và cách miêu tả phiên tòa của Plato trong tác phẩm “Apology” cũng ủng hộ luận điểm đó). Những ngày cuối cùng của Socrates được ghi lại trong các tác phẩm của Plato như “Euthyphro”, “Apology”, “Crito” và “Phaedo”. Trong “Phaedo”, ta thấy Socrates bị tử hình bằng thuốc độc, được bạn bè bao quanh phút lâm chung trong nhà lao ở Athens. Plato nhận xét “Đó là cái kết dành cho người bạn của chúng tôi, người mà tôi tin là khôn ngoan, công bằng, và tốt bụng nhất mà tôi từng biết.”

Học trò của Socrates chịu ảnh hưởng sâu sắc từông. Họ hình thành những cách lý giải khác nhau về cuộc sống, lời dạy, và cái chết của Socrates, từ đó thiết lập nhiều trường phái triết học riêng và viết lại những kỷ niệm bên cạnh người thầy. Trong số đó, chỉ còn các tác phẩm của Plato, Xenophon, một vở hài kịch của Aristophanes, và những nghiên cứu sau này của Aristotle cung cấp thông tin về cuộc đời Socrates. Ông chưa từng viết lại bất cứ điều gì, nhưng lời nói, hành động tìm kiếm và bảo vệ Chân Lý của ông đã thay đổi thế giới. Tấm gương của Socrates đến nay vẫn là nguồn cảm hứng cho nhiều người.

Rate this post
Kim Lưu
Chào mọi người, mình là Kim Lưu, người lập Blog Lịch Sử này. Hy vọng blog cung cấp cho các bạn nhiều kiến thức hữu ích và thú vị.

BÀI LIÊN QUAN