Lịch Sử Việt Nam

Sự ra đời của Mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt Minh)

Sự ra đời của Việt Minh gắn liền với những biến động toàn cầu trong Thế Chiến II

Nguồn: Warfare History
su thanh lap viet minh

Thế kỷ XX chứng kiến nhiều biến động chính trị và quân sự tại khu vực Đông Dương, nơi Việt Nam trở thành tâm điểm của những cuộc giằng co quyền lực giữa các đế quốc thực dân, phát xít và phong trào độc lập dân tộc. Sự ra đời của Việt Minh vào năm 1941 dưới sự dẫn dắt của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) không chỉ đơn thuần là kết quả của những vận động cách mạng nội tại, mà còn là hệ quả tất yếu từ bối cảnh toàn cầu: Thế Chiến II, sự suy yếu của nước Pháp, và tham vọng bành trướng của đế quốc Nhật.

Bài viết dưới đây sẽ phác họa quá trình lịch sử phức tạp dẫn tới sự xuất hiện của Việt Minh, cũng như vai trò của các thế lực quốc tế trong việc định hình cục diện Đông Dương ngay trước khi Chiến tranh Việt Nam thực sự bùng nổ.

Pháp xâm lược Đông Dương

Từ cuối thế kỷ XVIII, người Pháp đã bắt đầu thiết lập các cơ sở truyền giáo Công giáo tại khu vực mà họ gọi là “Đông Dương”. Ban đầu, các giáo sĩ Pháp được triều đình nhà Nguyễn dung dưỡng, nhưng từ thập niên 1820 trở đi, chính sách bách hại Thiên Chúa giáo ngày càng khốc liệt, đặc biệt dưới triều vua Tự Đức (1847–1883). Việc đàn áp đạo Công giáo thúc đẩy can thiệp quân sự từ nước Pháp.

Năm 1858, nhằm ngăn chặn chính sách chống Thiên Chúa giáo tại triều Nguyễn, Hoàng đế Napoléon III của Pháp chính thức đưa quân vào bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) và sau đó là vùng đồng bằng quanh Sài Gòn. Đến năm 1862, triều đình buộc phải ký Hòa ước, chấp nhận nhượng quyền tự do tôn giáo và để mất một phần lãnh thổ, trong đó có Sài Gòn. Từ “mầm mống” này, Pháp dần mở rộng sự chiếm đóng ra toàn bộ ba xứ thuộc Việt Nam (Cochin China – Nam Kỳ, Annam – Trung Kỳ, Tonking – Bắc Kỳ) rồi đến cả Lào và Campuchia, hình thành Liên bang Đông Dương thuộc Pháp.

Ở Bắc Kỳ (Tonking), cuộc kháng cự của người Việt ban đầu rất mạnh. Song năm 1883, Pháp quyết định củng cố quyền lực bằng việc điều hạm đội tấn công cửa biển gần kinh đô Huế. “Để gây kinh hoàng”, theo ghi nhận đương thời, các cuộc đàn áp bằng pháo hạm và xử tử tù binh diễn ra tàn khốc, buộc triều đình Huế ký tiếp một hiệp ước mới, công nhận “chế độ bảo hộ” của Pháp lên toàn cõi Đông Dương. Khi Bắc Kinh (Triều đình nhà Thanh) cũng lên tiếng đòi quyền can dự, một cuộc xung đột nữa nổ ra. Tuy Trung Quốc giành một vài thắng lợi ban đầu, họ vẫn không thể ngăn Pháp thiết lập trọn vẹn nền cai trị nhờ Hiệp ước Thiên Tân (1885).

Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Pháp thống trị Đông Dương bằng “bàn tay sắt”. Mọi cuộc khởi nghĩa, phản kháng đều bị đàn áp dữ dội. Binh lính Lê dương (French Foreign Legion) cùng các đơn vị từ Bắc Phi cũng được sử dụng rộng rãi để khống chế trật tự tại xứ thuộc địa này.

Tranh chấp Pháp – Trung tại Tonking

Trong quá trình bành trướng lên miền Bắc, người Pháp đụng độ nhà Thanh, vốn cho rằng họ có quyền “tông chủ” (suzerainty) đối với xứ An Nam. Bản thân Pháp từng va chạm với Trung Quốc ở cuộc “Chiến tranh Nha phiến” trước đó, nên quan hệ hai bên càng thêm mâu thuẫn. Tướng Courbet của Pháp muốn dàn quân đánh lớn để bẻ gãy sức kháng cự, nhưng chính phủ Pháp đương thời lo sợ tình hình châu Âu bất ổn, không muốn đối đầu toàn diện. Thay vào đó, họ tiến hành trấn áp du kích ở miền Bắc.

Bất chấp thất bại của một trận đánh lớn gần Bacle (1884), quân Pháp vẫn dần kiểm soát Tonking, áp dụng các biện pháp răn đe mạnh tay: xử tử tù binh, cưỡng bức lao động bản xứ, khiến nhiều dân phu bỏ trốn, làm gián đoạn hậu cần. Dẫu có lúc tướng Oscar de Négrier của Pháp bị đánh bại ở Lạng Sơn (1885), Trung Quốc không theo đuổi chiến thắng đó. Cuối cùng, Hiệp ước Thiên Tân ra đời, mang lại cho Pháp gần như mọi điều họ mong muốn, đặt nền tảng cai trị chặt chẽ ở Đông Dương từ năm 1885 cho đến Thế Chiến II.

Lính Nhật tiến vào Sài Gòn bằng xe đạp
Ngày 15 tháng 9 năm 1941, quân đội Nhật Bản tiến vào thành phố Sài Gòn bằng xe đạp. Sau khi chiếm đóng Đông Dương và giải giáp quân đội Pháp tại đây, Nhật Bản đã để chính phủ Vichy Pháp thân Nhật tiếp tục quản lý đất nước cho đến tháng 3 năm 1945.

Nhật đảo chính Pháp

Năm 1940, Pháp bất ngờ sụp đổ trước Đức Quốc xã, tạo cơ hội cho Nhật Bản xâm nhập Đông Dương. Quân Nhật đe dọa ném bom Hà Nội, đòi quyền đóng quân nhằm thiết lập căn cứ quân sự chuẩn bị mở rộng phạm vi chiến tranh trong khu vực. Tình cảnh chính quyền thực dân Pháp tại Đông Dương (thuộc chế độ Vichy thân Đức) rơi vào thế bị ép, chấp nhận cho Nhật đổ quân vào. Tuy nhiên, quân đội Nhật vẫn để bộ máy cai trị Pháp tồn tại hình thức, nhằm ổn định công việc hành chính trong khi họ tập trung xây dựng sân bay, hải cảng và căn cứ lục quân.

Trong thời gian này, người Nhật cướp bóc tài nguyên Đông Dương, tịch thu nhiều lương thực, khoáng sản, đồng thời chặn đường tiếp tế cho phe Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch (Trung Quốc) qua ngả Hải Phòng. Sự nhục nhã của thực dân Pháp dưới tay phát xít Nhật đã khơi dậy phong trào dân tộc khắp Đông Dương, đặc biệt là các lực lượng cộng sản. Tại Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc (sau này là Hồ Chí Minh) thành lập Mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Viet Minh) năm 1941, với mục tiêu đánh đuổi cả Nhật và Pháp để giành độc lập.

Trong bức ảnh chụp vào tháng 10 năm 1945 này, hai binh sĩ Nhật Bản có vũ trang đang ngồi trên một con phố ở Sài Gòn, hỗ trợ người Anh trong nỗ lực duy trì trật tự trong cuộc nổi dậy của nhiều phe phái chính trị ở Đông Dương. Giao tranh diễn ra ác liệt ở phía xa.

Hồ Chí Minh và sự khai sinh Việt Minh

Nguyễn Ái Quốc, người sau này lấy tên Hồ Chí Minh, đã hoạt động cách mạng từ đầu thế kỷ XX, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi Thế Chiến II nổ ra, ông nhận thấy tình thế “địch – ta” biến chuyển: Pháp trở nên suy yếu, Nhật chiếm đóng Việt Nam, nhân dân bất mãn vì nạn đói và áp bức. Tận dụng cơ hội, Hồ Chí Minh và những nhà cách mạng khác triệu tập hội nghị các nhóm dân tộc, lập ra Việt Minh (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh), thống nhất phe kháng Nhật và đấu tranh vì độc lập.

Tuy vậy, Pháp vẫn điên cuồng đàn áp các cuộc nổi dậy của các tổ chức dân tộc chủ nghĩa. Nhiều làng mạc bị tàn phá, hàng ngàn người bị bắt, giết, thậm chí bị tra tấn và xỏ dây qua lòng bàn tay để dẫn giải. Phong trào yêu nước ở Việt Nam vì thế càng thêm quyết liệt, nhưng cũng phải hoạt động bí mật, chờ đợi thời cơ lớn khi Thế Chiến II sắp kết thúc.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp kiểm tra quân Việt Minh trong cuộc chiến chống quân Nhật chiếm đóng năm 1944. Ông Giáp và Việt Minh sau đó đã hướng lòng yêu nước được thúc đẩy bởi học thuyết Cộng sản chống lại thực dân Pháp và sau đó là Hoa Kỳ.

Kế hoạch khôi phục quyền lực thuộc địa

Sau khi Đức và Nhật đứng trước bờ vực thất bại, các nước Đồng minh đã thảo luận về số phận các thuộc địa. Mục tiêu chung của Anh là khôi phục lại nguyên trạng thuộc địa, tức trả Đông Dương về cho Pháp “Tự do” (phe De Gaulle). Nhưng Mỹ lại có quan điểm trái ngược. Tổng thống Franklin D. Roosevelt nghi ngờ chủ nghĩa thực dân Pháp, tuyên bố Pháp đã cai trị Việt Nam gần trăm năm nhưng dân chúng vẫn khổ cực. Ông đề xuất một “chế độ ủy trị” để chuẩn bị cho con đường độc lập của các nước Đông Dương.

Dù vậy, chính sách “chống thực dân” của Mỹ nhanh chóng thay đổi khi cuộc Chiến tranh Lạnh manh nha. Khi nhận thấy phong trào cộng sản ở Đông Nam Á đang áp dụng “phương thức cách mạng” từ Trung Quốc, Mỹ bắt đầu lo ngại rằng việc để Pháp quay lại có thể là phương án ít rủi ro hơn so với việc cộng sản mở rộng ảnh hưởng. Đến cuối năm 1946, quan điểm của Mỹ đã nghiêng về ủng hộ phương Tây, kể cả việc khôi phục thuộc địa Pháp để ngăn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản ở Viễn Đông.

inh lính và người ủng hộ Việt Minh đã tổ chức một cuộc mít tinh công khai ở thành phố Hà Nội
Khi sự thống trị của Nhật Bản ngày càng trở nên rõ ràng là sắp kết thúc, binh lính và người ủng hộ Việt Minh đã tổ chức một cuộc mít tinh công khai ở thành phố Hà Nội thuộc Đông Dương vào tháng 3 năm 1945.

Đảo chính Nhật

Tháng 3/1945, để đối phó tình hình chiến sự ngày càng xấu, Nhật tiến hành đảo chính lật đổ Pháp ở Đông Dương, tuyên bố trao “độc lập” cho Việt Nam, lập chính phủ bù nhìn do Hoàng đế Bảo Đại đứng đầu. Một số lính Pháp chống cự, tìm cách chạy sang Trung Quốc, mong Đồng minh giúp đỡ. Anh muốn giúp, nhưng Mỹ từ chối can dự, lấy lý do “giữ lập trường trung lập trước xung đột thuộc địa”.

Trên thực tế, Nhật cho Bảo Đại làm bù nhìn ở miền Nam, trong khi các lực lượng cộng sản ở miền Bắc lập chính phủ cách mạng lâm thời cùng Quân Giải phóng Dân tộc. Chỉ vài tháng sau, quân Viet Minh đã giải phóng sáu tỉnh phía Bắc, thiết lập chính quyền địa phương và tiếp tục củng cố lực lượng. Mục tiêu rõ ràng: chờ thời cơ khi Nhật bại trận để giành chính quyền toàn quốc.

Thiếu tá Ahmed Khan Sarda Bahadur thuộc Sư đoàn Ấn Độ số 20 ngồi trước một chiếc bàn phủ cờ Liên hiệp Anh và nhận thanh kiếm của một sĩ quan Nhật Bản trong buổi lễ đầu hàng năm 1945.
Thiếu tá Ahmed Khan Sarda Bahadur thuộc Sư đoàn Ấn Độ số 20 ngồi trước một chiếc bàn phủ cờ Liên hiệp Anh và nhận thanh kiếm của một sĩ quan Nhật Bản trong buổi lễ đầu hàng năm 1945.

Anh Pháp đối đầu Việt Minh

Khi chiến tranh kết thúc, điều khoản Đồng minh yêu cầu Nhật đầu hàng vô điều kiện. Đông Dương bị chia làm hai khu vực: phía bắc vĩ tuyến 16 giao cho Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch tiếp quản, trao lại cho Pháp; phía nam vĩ tuyến 16 nằm dưới quyền Anh, đại diện là Thống chế Louis Mountbatten (chỉ huy Đồng minh khu vực Đông Nam Á). Người Anh muốn nhanh chóng ổn định, hồi hương tù binh, và tạo điều kiện cho Pháp khôi phục cai trị.

Tuy nhiên, Mỹ đứng ngoài, không trực tiếp trợ giúp Pháp vì quan điểm chống chủ nghĩa thực dân vẫn còn ảnh hưởng. Đồng thời, thực lực Viet Minh ở miền Nam không mạnh bằng miền Bắc, nhưng họ vẫn chiếm được nhiều cơ quan hành chính tại Sài Gòn và tìm cách xóa bỏ ảnh hưởng Pháp. Trong bối cảnh đó, Anh cử Thiếu tướng Douglas Gracey và Sư đoàn 20 Ấn Độ (20th Indian Division, khoảng 22.000 quân) đến Sài Gòn lập Ủy ban Kiểm soát Đồng minh.

Những người lính cộng sản trung thành với Hồ Chí Minh diễu hành qua các đường phố Hà Nội vào tháng 4 năm 1946
Những người lính cộng sản trung thành với Hồ Chí Minh diễu hành qua các đường phố Hà Nội vào tháng 4 năm 1946. Việt Minh cuối cùng đã làm bẽ mặt người Pháp tại Điện Biên Phủ và buộc họ rời khỏi Đông Dương. Sau đó, Hoa Kỳ vướng vào một cuộc chiến tranh dài và khó khăn ở Việt Nam, đất nước đã được đổi tên.

Chia cắt Đông Dương

Tại Hội nghị Potsdam (7/1945), Đồng minh thống nhất chia cắt Đông Dương để giải giáp quân Nhật: phía bắc do Tưởng Giới Thạch thay mặt Đồng minh, phía nam do Lord Mountbatten đảm nhận. Người Pháp, tuy thất thế, vẫn được “trao lại chủ quyền” trên danh nghĩa. Tuy nhiên, chính quyền De Gaulle ở Paris khao khát tái chiếm Đông Dương, trong khi tình hình thực địa rất hỗn loạn: nhiều nhóm quốc gia, cộng sản, tôn giáo (Cao Đài, Hòa Hảo), thậm chí cả nhóm Trotskyist, đang giành giật quyền lực.

Tại miền Bắc, Viet Minh đã giải phóng Hà Nội và nhiều tỉnh lân cận, tận dụng khoảng trống quyền lực sau khi Nhật đầu hàng. Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, nhấn mạnh “mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”, trích dẫn cả Tuyên ngôn của Hoa Kỳ. Với tinh thần chống thực dân và hy vọng được Mỹ ủng hộ, chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn sàng chống lại mọi nỗ lực tái chiếm của Pháp.

Những người lính thuộc Sư đoàn 20 của Ấn Độ lên tàu vận tải khi họ chuẩn bị rời Đông Dương vào tháng 5 năm 1946
Những người lính thuộc Sư đoàn 20 của Ấn Độ lên tàu vận tải khi họ chuẩn bị rời Đông Dương vào tháng 5 năm 1946. Nếu không có quân đội Khối thịnh vượng chung Anh giúp duy trì trật tự dân sự, bạo lực đã gia tăng ở đất nước này.

Tuyên Ngôn Độc Lập và chia cắt miền Bắc

Khi Nhật đầu hàng tháng 8/1945, Võ Nguyên Giáp dẫn quân tiến vào Hà Nội, cướp chính quyền từ tay chính phủ thân Nhật. Sức kháng cự của Pháp đã tan rã (do bị Nhật tước vũ khí từ tháng 3/1945). Việt Minh chiếm kho vũ khí của Nhật và Pháp, thu được hàng vạn khẩu súng trường, súng máy, pháo và đạn dược. Đây là nguồn lực quân sự quan trọng, tạo nên sức mạnh ban đầu cho Quân đội Nhân dân Việt Nam sau này.

Hồ Chí Minh nhanh chóng thành lập chính phủ, ban hành sắc lệnh, kêu gọi nhân dân ủng hộ “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Bên cạnh việc tìm kiếm sự công nhận quốc tế, ông còn tận dụng sự giúp đỡ của Văn phòng Tình báo Chiến lược Mỹ (OSS), vốn đang phối hợp với các phong trào chống Nhật. Tuy nhiên, khi chiến tranh chấm dứt, chính sách Mỹ thay đổi, sự ủng hộ này không còn mạnh mẽ như trước.

Thiếu tướng Douglas Gracey chỉ huy Sư đoàn 20 của Ấn Độ
Thiếu tướng Douglas Gracey chỉ huy Sư đoàn 20 của Ấn Độ và chịu trách nhiệm cung cấp viện trợ nhân đạo cũng như giúp đỡ các cựu tù binh chiến tranh ở Đông Dương.

Saigon qua tay các thế lực

Trong khi đó, ở miền Nam, sau ngày Nhật đầu hàng (15/8/1945), Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ do các đảng phái quốc gia, có cả cộng sản dẫn dắt, được thành lập tại Sài Gòn. Cuộc biểu dương lực lượng của các nhóm yêu nước diễn ra, với mục tiêu giành trọn quyền kiểm soát. Tuy nhiên, nơi đây có nhiều thế lực và hệ tư tưởng phức tạp: Cao Đài, Hòa Hảo, các nhóm Trotskyist, các lực lượng quốc gia độc lập khác… gây nên sự xung đột nội bộ.

Ngày 2/9/1945, Viet Minh tại Sài Gòn tổ chức cuộc tuần hành lớn, xảy ra đụng độ dẫn đến cái chết của vài người Pháp. Mặc dù vậy, để tránh đối đầu trực tiếp với phe Đồng minh, các lãnh đạo cộng sản cố gắng duy trì thế hòa hoãn, không muốn kích động quân Anh (đang trên đường đến tiếp quản) hay khiến Mỹ can thiệp. Chính trong khoảng trống quyền lực này, người Anh đặt chân đến Sài Gòn nhưng nhận thấy tình hình hỗn loạn và bạo lực gia tăng.

Tướng Anh Douglas Gracey (bên phải) bàn giao quyền chỉ huy tại Việt Nam cho Tướng Pháp Jacques Leclerc
Tướng Anh Douglas Gracey (bên phải) bàn giao quyền chỉ huy tại Việt Nam cho Tướng Pháp Jacques Leclerc. Nhiều phe phái chính trị tranh giành quyền kiểm soát đất nước, và tình hình trở nên bấp bênh đối với Pháp sau Thế chiến thứ hai.

Xung Đột Việt Minh – Pháp – Anh

Do ảnh hưởng của Tướng Douglas MacArthur, lễ đầu hàng chính thức của Nhật tại Tokyo bị hoãn đến 2/9/1945, gây chậm trễ trong việc giải phóng tù binh ở Đông Dương. Quân Anh (dưới quyền Trung tướng Douglas Gracey) đến Sài Gòn từ ngày 11/9, nhưng chỉ với một số lực lượng tiên phong và được… quân Nhật vẫn đang cầm vũ khí hộ tống. Toàn bộ Sư đoàn 20 Ấn Độ phải đến cuối tháng 10/1945 mới tập hợp đủ.

Gracey tới Sài Gòn ngày 13/9, nhận thấy trạng thái vô chính phủ: các nhóm vũ trang khắp nơi, quân Nhật còn đủ trang bị, lực lượng Việt Minh đang nắm nhiều cơ quan. Ông từ chối làm việc với Ủy ban Nam Bộ, chỉ công nhận chính quyền người Pháp (điều này thực tế hất cẳng Việt Minh khỏi thành phố). Mặt khác, Pháp thuyết phục Gracey tái vũ trang cho lính Pháp vừa bị Nhật giam, để họ cùng quân Anh “dẹp loạn” Việt Minh.

Lực lượng Nhật và quân đội Anh

Ngày 23/9/1945, với sự hỗ trợ ngầm từ Gracey, lính Pháp mở cuộc đảo chính giành lại Sài Gòn, treo cờ tam tài Pháp trên Dinh Xã Tây. Việt Minh và các lực lượng đồng minh chống Pháp bị đẩy lùi. Quân Pháp sau đó đã tấn công thường dân Việt, gây nên bầu không khí căng thẳng. Phản ứng lại, một đám đông không chịu sự kiểm soát của Việt Minh đã tấn công các khu phố Pháp, dẫn đến những vụ giết hại, hãm hiếp. Để ngăn chặn, quân Anh cùng quân Nhật (nay trở thành lực lượng do Anh “mượn tay”) đã tham chiến, nổ súng vào các nhóm kháng cự. Xung đột dai dẳng, đường phố Sài Gòn có nơi biến thành chiến trường.

Nhiều người Anh và Ấn Độ bày tỏ phẫn nộ trước việc phải sát cánh cùng lính Nhật “cựu thù” để chống lại người Việt, nhưng Gracey lý giải rằng lực lượng của ông chưa đủ, dùng quân Nhật là “giảm thiểu tổn thất” cho Anh. Chính chiến lược này góp phần giúp Pháp chiếm lại Sài Gòn, tạo đà để họ mở rộng tái chiếm miền Nam.

Thế lưỡng nan ở Việt Nam

Từ cuối tháng 9/1945 đến đầu năm 1946, quân Anh – Ấn đẩy mạnh hoạt động truy quét các đơn vị vũ trang Việt Minh quanh Sài Gòn. Quân Viet Minh vẫn cố áp dụng chiến thuật du kích, đánh nhỏ lẻ, phục kích, đặt mìn, ám sát. Tuy nhiên, đối đầu với Sư đoàn 20 Ấn Độ vốn dày dặn kinh nghiệm tại Miến Điện, họ chịu nhiều thương vong.

Gateforce, một lực lượng đặc nhiệm do Trung tá Gates chỉ huy, kết hợp lính Ấn và lính Nhật, mở các cuộc hành quân tại Xuan Lộc, Long Kien… Viet Minh bị tổn thất đáng kể. Thậm chí, một số nhóm Nhật “đào ngũ” còn gia nhập chiến khu, trở thành chỉ huy cho các đơn vị Việt Minh địa phương. Dù thế, nhìn chung, với sự hỗ trợ của Nhật (đang bị Anh tạm trưng dụng) và sự trở lại của Pháp, cục diện ở miền Nam ngày càng bất lợi cho phe kháng chiến.

Tóm lại

Đến đầu năm 1946, Anh bắt đầu rút bớt quân khỏi Đông Dương, trao lại cho Pháp quyền kiểm soát. Trận đánh cuối giữa Anh và Việt Minh diễn ra ngày 3/1/1946 tại Biên Hòa, kết thúc với việc 80 lính Việt Minh tử trận mà phía Ấn Độ không mất một người. Càng về sau, Pháp càng củng cố vị thế ở miền Nam, còn miền Bắc do chính quyền Hồ Chí Minh tạm thời nắm giữ. Trong quá trình này, Mỹ dần chuyển sang hỗ trợ Pháp để ngăn chủ nghĩa cộng sản lan rộng.

Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất chính thức bùng nổ năm 1946, kéo dài đến 1954 khi Pháp bị đánh bại thảm hại tại Điện Biên Phủ. Hiệp định Genève (1954) công nhận quyền độc lập của các nước Đông Dương, nhưng Việt Nam lại bị chia cắt hai miền. Từ đó, một cuộc chiến mới – Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) – nối tiếp, liên quan sâu sắc đến Mỹ, trở thành một trong những xung đột lớn nhất thời Chiến tranh Lạnh.

Nhiều nhà sử học nhận định rằng sự can dự của Anh ở Nam Việt Nam năm 1945–1946, tuy mang danh “giải giáp quân Nhật” và ổn định trật tự, thực chất đã mở đường cho Pháp tái lập chế độ thực dân. Đến lượt mình, Pháp không thể trụ lâu dài, dẫn đến sự can dự ồ ạt của Mỹ. Nhìn từ góc độ này, “cuộc chiến tranh Việt Nam” đã manh nha ngay từ cuối Thế Chiến II, khi những thỏa thuận Potsdam và lợi ích đan xen của các đế quốc định đoạt số phận của cả một dân tộc.

Tổng Kết

  • Việc Nhật Bản chiếm đóng Đông Dương trong Thế Chiến II là cú hích quan trọng, khiến Pháp suy yếu, khơi dậy phong trào dân tộc, bao gồm lực lượng Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo.
  • Mỹ từng ủng hộ ý tưởng trao trả độc lập dần dần cho Đông Dương, nhưng sau đó thay đổi lập trường vì lo ngại cộng sản lan rộng.
  • Anh với mục tiêu chính là giải giáp tù binh Nhật và khôi phục trật tự thuộc địa cho Pháp đã vô tình (hoặc chủ ý) tạo điều kiện để Pháp quay lại.
  • Việt Minh, dù ban đầu được một phần viện trợ gián tiếp qua OSS, song nhanh chóng bị “xoay lưng” khi các cường quốc phương Tây thống nhất chọn Pháp để ngăn chặn làn sóng đỏ.
  • Từ các cuộc xung đột ở Sài Gòn cuối năm 1945, dòng máu đổ xuống báo trước một cuộc kháng chiến lâu dài mà đỉnh điểm là Điện Biên Phủ (1954) và sau đó là Chiến tranh Việt Nam (1955–1975).

Nhìn lại, ta thấy sự ra đời của Việt Minh gắn liền với những biến động toàn cầu trong Thế Chiến II, nơi mọi toan tính chính trị và quân sự từ châu Âu, châu Á đến Mỹ đều đổ dồn về mảnh đất nhỏ bé này. Đông Dương khi ấy không chỉ là cuộc tranh giành giữa Pháp với người Việt, mà còn là ván cờ địa chính trị có bóng dáng của Nhật, Anh, Mỹ, Trung Quốc. Trong bối cảnh ấy, Việt Minh trở thành lực lượng cách mạng hội tụ ý chí độc lập của người Việt và tư tưởng cộng sản quốc tế, mở ra chuỗi sự kiện dẫn đến “Chiến tranh Đông Dương” và xa hơn nữa là cuộc đối đầu Mỹ – Việt Nam sau này. Chỉ khi nhìn lại hành trình từ năm 1940 đến 1945, ta mới hiểu tại sao một tổ chức chính trị – quân sự “non trẻ” như Việt Minh lại trỗi dậy mạnh mẽ, sẵn sàng đối chọi với cả hai đế quốc hung mạnh nhất thời bấy giờ: Pháp và Nhật.

Chính những tiền đề lịch sử phức tạp này đã đưa nhân dân Việt Nam bước vào một cuộc chiến kéo dài hơn ba thập kỷ, ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử thế giới hiện đại. Và dẫu đã trải qua nhiều thăng trầm, giai đoạn Thế Chiến II ở Đông Dương vẫn luôn được xem là bước ngoặt quyết định, khai sinh nhiều anh hùng, nhiều bi kịch, tạo tiền đề cho một Việt Nam độc lập nhưng cũng ngổn ngang đau thương kéo dài cho đến cuối thế kỷ XX.

5/5 - (1 vote)

ĐỌC THÊM

Kim Lưu
Chào mọi người, mình là Kim Lưu, người lập Blog Lịch Sử này. Hy vọng blog cung cấp cho các bạn nhiều kiến thức hữu ích và thú vị.