Lịch Sử Việt Nam

Tại sao nhà Nguyễn chịu nhiều định kiến

Triều Nguyễn có công mở cõi, thống nhất đất nước và cả những sai lầm đáng trách cuối thế kỷ XIX

cong va toi nha nguyen

Tác giả bài gốc: Kiến Hào

Blog Lịch Sử tổng hợp và biên soạn

Bài viết này nhằm cung cấp một cái nhìn khách quan hơn về vương triều Nguyễn sau năm 1975, khi nhiều giá trị từng được công nhận của miền Nam bị xóa bỏ và thay thế. Rất nhiều thế hệ học sinh đã tiếp xúc với những góc nhìn cực đoan về các chúa Nguyễn và triều Nguyễn, từ cách gọi tên đường đến các bài học trong sách giáo khoa. Hy vọng nội dung sau sẽ gợi thêm những suy nghĩ công bằng, nhiều chiều về triều đại đã đóng vai trò quan trọng trong việc mở mang bờ cõi, thống nhất giang sơn.

Khai hoang mở cõi

Nhiều người cho rằng triều Nguyễn chỉ là “tập đoàn phong kiến phản động” nhưng sự thật, các chúa Nguyễn đã có công lớn trong việc mở nước và gắn kết đất nước. Từ năm 1558, chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa, từ “Ô Châu ác địa” khắc nghiệt, chúa Nguyễn đã cai trị bằng chính sách khoan hòa, thu phục lòng người và trở thành “vùng đất hứa” cho hàng ngàn dân lưu tán từ Thăng Long, Thanh Nghệ đang đói kém, mất mùa. Vùng Thuận Quảng không chỉ cứu họ thoát khỏi khốn cùng mà còn mở đầu cho quá trình Nam tiến suốt hai thế kỷ, từ Quảng Nam vượt qua Chiêm Thành, đến Chân Lạp, tạo nên địa bàn Nam Bộ trù phú ngày nay.

Chính sách trọng thương của các chúa Nguyễn đã thu hút thương nhân nước ngoài, hình thành các thương cảng phát đạt như Hội An, Thanh Hà, thuế khóa và nguồn lợi từ buôn bán giúp quân Nguyễn đủ tiềm lực phòng thủ, đối đầu chúa Trịnh. Việc mở cửa này hoàn toàn trái ngược với bức tranh “bế quan tỏa cảng” về sau. Vào các thế kỷ XVII – XVIII, hoạt động của tàu buôn Nhật Bản, Trung Quốc, phương Tây đến Đàng Trong rất nhộn nhịp.

Đặc biệt, quá trình mở rộng cương vực xuống phía Nam là công lao nổi bật của các chúa Nguyễn. Khởi đầu từ Phú Yên (1611), rồi Khánh Hòa (1653), Bình Thuận (1693)… đến Gia Định (1698), Hà Tiên (1708), Cà Mau, Rạch Giá, Vĩnh Long… và cuối cùng định hình vùng châu thổ sông Cửu Long. Sự mở cõi này không chỉ đơn thuần là bành trướng mà còn là quá trình khai phá, chiêu mộ lưu dân nghèo, tạo cơ hội cho họ lập nghiệp, biến vùng đất hoang thành nơi canh tác trù phú.

Nhà thơ Nguyễn Duy từng băn khoăn: “Không hiểu tại sao, từ lúc nào nhà Nguyễn bị bóp méo đến biến dạng… bị hạ thấp một cách oan ức…?”. Thực tế, nếu quên công lao của chúa Nguyễn trong việc mở cõi sẽ là bất công với lịch sử. Chính các chúa đã xây dựng phần lãnh thổ rộng gấp đôi, đặt nền móng quan trọng cho sự thống nhất quốc gia về sau.

Thống nhất đất nước sau gần 300 năm chia cắt

Trước khi vua Gia Long lên ngôi (1802), nước Đại Việt trải gần ba thế kỷ chia cắt:

  1. Chiến tranh Nam – Bắc triều (Lê – Mạc) kéo dài thế kỷ XVI, làm kiệt quệ xứ Bắc, nông dân phiêu tán, cơ đồ cường thịnh của thời Lê sơ bị xé nát.
  2. Trịnh – Nguyễn phân tranh (1627 – 1672) chia đất nước thành Đàng Ngoài và Đàng Trong, hơn 100 năm bị chia cắt, chúa Trịnh dẫu nắm quyền cũng để vua Lê làm bù nhìn, trong khi chúa Nguyễn tiếp tục vươn xuống phương Nam.
  3. Phong trào Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII bùng nổ, tiêu diệt chúa Nguyễn, đánh đổ chúa Trịnh và tàn dư nhà Lê, nhưng rồi chính Tây Sơn lại chia ba: Nguyễn Nhạc (Quy Nhơn), Nguyễn Huệ (Thuận Hóa – Quảng Nam), Nguyễn Lữ (Gia Định). Chiến tranh liên miên, đất nước không thể yên bình.

Mãi đến năm 1802, vua Gia Long chấm dứt triều Tây Sơn, thu giang sơn về một mối, chấm dứt 275 năm phân liệt. Hành động của Gia Long không phải là “phản cách mạng” đơn thuần như quan điểm cực đoan vẫn gán ghép, mà là bước ngoặt khôi phục hòa bình, lập lại trật tự, cho phép người dân an cư lạc nghiệp.

Nhiều người nêu thắc mắc “vua Gia Long có cắt đất dâng cho ngoại bang hay không?”: Sử liệu chính thống cho thấy Gia Long không hề nhượng cửa biển, đất liền hay hải đảo nào cho Pháp. Điều khoản Hiệp ước Versailles (1787) vốn ghi nhận việc “nhượng cảng Hội An và Côn Đảo” chưa bao giờ được thực thi. Khi Gia Long lên ngôi, đại diện Pháp đến đòi, vua dứt khoát từ chối.

Công lao thống nhất giang sơn của vua Gia Long là rõ ràng: kết thúc chuỗi nội chiến khốc liệt, không còn tình trạng chúa Trịnh – chúa Nguyễn cát cứ hai miền, cũng không còn Tây Sơn chia thành ba “vương quốc”. Dù về sau, nhà Nguyễn có những sai lầm (bảo thủ, cấm đạo, rồi để mất nước vào tay thực dân Pháp), nhưng giai đoạn đầu, chính triều Nguyễn đã thiết lập được một quốc gia hùng mạnh bao trùm cương vực ngày nay.

Nguyên nhân những định kiến cay nghiệt

Vì sao Thăng Long thành “phế đô”

Nhiều người nói vua Gia Long “khiếp nhược”, không dám đóng đô ở Thăng Long, nhưng thực tế Thăng Long đã sụp đổ từ triều Tây Sơn. Năm 1786, cuộc chiến Tây Sơn – chúa Trịnh đẩy Thăng Long vào cảnh loạn lạc. Đích thân vua Lê Chiêu Thống đốt phủ chúa Trịnh, khiến cung khuyết huy hoàng cháy rụi hơn mười ngày. Rồi vua Lê bỏ kinh, lưu vong sang Trung Quốc, Thăng Long không còn là “đô hội” mà trở nên tàn tạ, trống rỗng. Quang Trung lên ngôi ở Phú Xuân; Gia Long cũng xưng đế ở Phú Xuân. Từ đó, Huế trở thành kinh đô mới nhờ vị trí trung tâm cả nước (đất nước đã vươn xa đến mũi Cà Mau). Thăng Long thành “Bắc thành”, ngang hàng với Gia Định thành, không hề do Gia Long sợ hãi mà do quy luật khách quan: vùng đất Hà Nội khi ấy đã cạn kiệt tiềm lực.

Bởi thế, lời vu cho rằng “nhà Nguyễn sợ phong trào nhân dân nên đóng đô ở Huế” chỉ là áp đặt. Dẫu quý trọng quá khứ của Thăng Long, chúng ta cũng phải thừa nhận: cuối thế kỷ XVIII, nơi đây đã suy yếu, bị tàn phá nặng nề và không còn giữ vai trò trung tâm.

Thành kiến từ quan điểm chính trị

Sau năm 1975, sách sử miền Nam cũ bị hủy bỏ, các tên đường liên quan triều Nguyễn bị thay, nhiều tư liệu giảng dạy ở nhà trường dùng từ ngữ gay gắt, cho rằng “nhà Nguyễn cực kỳ phản động, bán nước cho Pháp, dâng đất hòng cầu vinh”. Thậm chí, có người còn đối lập Tây Sơn như “tiến bộ” và chúa Nguyễn, vua Gia Long là “bảo thủ lạc hậu”. Thực tế, Tây Sơn cuối triều Cảnh Thịnh (Quang Toản) đã suy đồi, đánh mất lòng dân. Gia Long trở thành đại diện cuối cùng khôi phục trật tự và thống nhất nước Nam, nên được dân ủng hộ.

Nhiều tài liệu gần đây đã bóp méo hoặc quên công lao mở cõi, nhưng đi kèm đó là việc “minh oan” cho Mạc Đăng Dung – người từng giết vua cướp ngôi, quỳ gối cắt đất dâng nhà Minh, dẫn đến cảnh đất nước rơi vào Nam – Bắc triều hàng chục năm. Sự tréo ngoe này cho thấy những đánh giá mang màu sắc chính trị cục bộ, thiếu tinh thần khách quan.

Lấy “nay” để phê phán “xưa”

Nhiều phê phán gay gắt nhắm vào triều Nguyễn vì để đất nước rơi vào tay Pháp cuối thế kỷ XIX – đầu XX. Nên nhớ, gần như toàn châu Á lúc ấy đều bị các đế quốc phương Tây xâm lược. So với họ, Việt Nam không thoát vòng lao lý lịch sử chung. Để mất nước là sai lầm của triều Nguyễn, song đổ mọi trách nhiệm cho vua quan nhà Nguyễn, bỏ qua bối cảnh thế giớithiếu công bằng. Hơn nữa, một số cải cách hành chính, kinh tế – xã hội thời Minh Mệnh, Thiệu Trị vẫn mang tính tiến bộ trong khuôn khổ chế độ phong kiến, khó thể “so sánh” trực tiếp với chuẩn mực hiện đại.

Chút nhận định

Sau năm 1975, các giá trị cũ ở miền Nam bị xóa, đặc biệt là những gì liên quan triều Nguyễn. Song ở góc độ công bằng, triều Nguyễn có công mở cõi, thống nhất đất nước và cả những sai lầm đáng trách cuối thế kỷ XIX. Lịch sử cần được nhìn nhận đa chiều, thay vì tô đen toàn bộ hay chỉ tô hồng một triều đại.

Một điều đáng mừng: ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu độc lập dần khẳng định “công – tội nhà Nguyễn cần phân minh”, không thể phớt lờ đóng góp của các chúa Nguyễn, vua Gia Long trong sự nghiệp mở đất gấp đôi, thống nhất giang sơn. Như nhà văn Hoàng Lại Giang từng viết: “Không hiểu vì sao chúng ta lại quên một cách có ý thức công lao mở cõi của họ Nguyễn?”

Tri ân tiền nhân mở nước không có nghĩa phủ nhận những sai lầm hay bất công mà triều Nguyễn từng phạm phải. Ngược lại, đó là thái độ công bằng, trân trọng sự thật: nhìn nhận cả cái đúng, cái sai, hiểu rõ bối cảnh lịch sử và rút ra bài học cho hiện tại. Đối với một dân tộc đã vươn dài bờ cõi phương Nam, không thể nào lãng quên những người đã giúp mở mang đó.


Bài viết không tham vọng “giải oan” trọn vẹn hay lẩn tránh trách nhiệm của triều Nguyễn, nhưng mong khơi dậy một góc nhìn cân bằng hơn về vai trò của các chúa và vua Nguyễn. Lịch sử đã qua, song tính khách quan mãi là yêu cầu để thế hệ sau hiểu cội nguồn dân tộc, từ đó hun đúc tinh thần tự tôn và niềm biết ơn đúng mực.

5/5 - (2 votes)

cards
Powered by paypal

Đăng ký theo dõi trang để nhận thông báo bài viết mới hàng tuần

ĐỌC THÊM

Kim Lưu
Chào mọi người, mình là Kim Lưu, người lập Blog Lịch Sử này. Hy vọng blog cung cấp cho các bạn nhiều kiến thức hữu ích và thú vị.