Ngày 31/01/1968, Cố đô Huế rộn ràng chuẩn bị ăn Tết Mậu Thân. Đây là khoảng thời gian sum họp gia đình để cầu một năm tốt đẹp hơn. Bầu không khí xuân ngập tràn sắc màu với nào là cờ, đèn lồng và những chậu mai vàng hay đào thắm rực rỡ. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố ngưng bắn để chào đón cái Tết đặc biệt này.
Là tỉnh lỵ của Thừa Thiên Huế và cũng là biểu tượng cho lịch sử hào hùng của Việt Nam, Huế được cả chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Việt Cộng coi trọng như một thành phố trung lập. Ngoài những đợt pháo kích bất ngờ từ phía Việt Cộng, Huế hầu như không bị tàn phá bởi chiến tranh.
Nằm bên bờ Sông Hương, Huế là thành phố lớn thứ ba Việt Nam với dân số khoảng 140,000 người. Phía bắc sông là khu vực cổ kính hơn, được biết đến là Kinh Thành – một khu vực rộng gần 5 cây số vuông được bao bởi tường thành kiên cố cao tới 9 mét. Một con hào nước sâu 4 mét và rộng 27 mét chạy bao quanh tường thành.
Bên trong Kinh Thành là Hoàng Cung cùng những cung điện. Những công viên, khu nhà ở, khu thương mại (thường cũng có tường vây quanh) cùng một sân bay nhỏ (Tây Lộc) nằm xen giữa. Dọc theo bờ nam Sông Hương là khu vực trung tâm hành chính của thành phố – bao gồm trụ sở tỉnh, nhà tù, ngân khố, và Đại học Huế. Cả hai khu vực này được kết nối bởi cầu Nguyễn Hoàng. Khu vực hình tam giác giữa con sông, kênh An Cựu, và Quốc Lộ 1 cũng là một phần quan trọng của cố đô.
Lực lượng Đồng Minh trong thành phố khá mỏng. Ở góc đông bắc Kinh Thành là khu vực Mãng Cá – nơi đặt Tổng hành dinh của Sư Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa. Bốn tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 3 của sư đoàn cùng hai tiểu đoàn dù từ lực lượng Tổng Trừ Bị đóng quân cách đó vài cây số. Trung đoàn Kỵ Binh số 7 đóng tại căn cứ Tầm Thai nằm ở vòng ngoài phía Nam của thành phố. Tư lệnh Sư đoàn, Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng, được phía Mỹ công nhận là một trong những chỉ huy giỏi nhất của Việt Nam Cộng Hòa. Tướng Trưởng chỉ có đại đội trinh sát tinh nhuệ Hắc Báo và một đại đội quân giới đóng ở sân bay Tây Lộc ngay trong thành phố.
Cách cầu Nguyễn Hoàng hai dãy nhà về phía nam là khu nhà Bộ Chỉ huy Cố vấn Quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV). Đây là nơi ở của khoảng 200 sĩ quan Mỹ thuộc Lục quân và Thủy quân Lục chiến, do Đại tá Lục quân George Adkisson chỉ huy. Các cố vấn và quan sát viên Mỹ và Úc cho các đơn vị phía Việt Nam cũng ở đây tạm trước khi đi ra tiền tuyến. Khu vực này bao gồm một khách sạn cũ cùng một số tòa nhà liền kề được rào chắn bằng hàng rào kẽm gai, bên cạnh đó còn có công sự và chòi canh. Ở cuối phía nam cây cầu là một bến tàu nhỏ của Hải quân Mỹ ngay cạnh một công viên.
Kế Hoạch và Những Trận Đánh Đầu Tiên của Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân
Quân Giải Phóng và Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐNDVN) đã lên kế hoạch cho cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân gần một năm trước đó. Mục tiêu là tấn công tất cả các thành phố lớn và các vị trí chiến lược ở miền Nam Việt Nam để kích động một cuộc nổi dậy của người dân, hạ bệ chính phủ miền Nam Việt Nam mà họ cho là tham nhũng. Chiến dịch được gọi là Tổng Tấn công – Nổi dậy.
Từ tháng 9 năm 1967, QĐNDVN và du kích Quân Giải Phóng mở các cuộc tấn công mạnh ở phía nam Khu Phi Quân Sự. Khác với các cuộc tấn công nhỏ lẻ trước đây, những đợt tấn công mới này có sự tham gia của các đơn vị cấp đại đội và tiểu đoàn. Mặc dù thương vong nặng nề, các hoạt động của Cộng Sản đã hoàn thành nhiệm vụ thu hút sự chú ý của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) về khu vực biên giới. Đáp lại, Tướng William Westmoreland, chỉ huy lực lượng Mỹ tại Việt Nam, bắt đầu chuyển các đơn vị Thủy quân Lục chiến và Lục quân Mỹ về phía bắc.
Lực lượng Đặc nhiệm X-Ray được thành lập tại Phú Bài, cách Huế sáu dặm về phía nam, dưới quyền Chuẩn tướng Foster “Frosty” LaHue, phó tư lệnh Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến, như một phần của cuộc điều chỉnh lực lượng. Trung đoàn Thủy quân Lục chiến 1 và 5, cùng với Tiểu đoàn Pháo binh 1 với hai tiểu đoàn được đặt dưới sự chỉ huy của LaHue. Khi ngày 31 tháng 1 cận kề, chỉ có sở chỉ huy Lực lượng Đặc nhiệm và sở chỉ huy của hai trung đoàn chuyển đến Phú Bài. Ngoài một đại đội bộ binh làm lực lượng phản ứng, các đơn vị chiến đấu còn lại của LaHue vẫn đang hoạt động ngoài thực địa.
Du kích Quân Giải Phóng đã thâm nhập vào Huế, tích trữ đạn dược, thực phẩm và nhu yếu phẩm. Họ chủ yếu sử dụng các cô gái trẻ, một số còn đang tuổi thiếu niên, để tránh bị nghi ngờ. Các cô gái quan sát các hoạt động của VNCH và lực lượng Mỹ, thời gian đổi gác, và số lượng lính gác. Họ xác định địa chỉ nhà ở, cơ quan, thói quen của người Âu, quan chức chính phủ, sĩ quan quân đội và cảnh sát, và bất kỳ ai mà Quân Giải Phóng coi là ủng hộ chính quyền.
Đồng thời, các đơn vị chính quy QĐNDVN được huấn luyện và trang bị tốt di chuyển về phía nam trong một hành trình dài và nguy hiểm dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh. Một số đơn vị đến sớm đã dành nhiều tháng trong các khu trại bí mật trên núi. Để phối hợp hoạt động của các đơn vị chính quy QĐNDVN và du kích Quân Giải Phóng với quân số gần 8.000 người, Mặt trận Thành phố Huế được thành lập dưới sự chỉ huy của các sĩ quan QĐNDVN.
Bất chấp mọi nỗ lực, QĐNDVN không thể nào che giấu hoàn toàn việc di chuyển một số lượng lớn người và tiếp tế. Việc tăng cường độ giao tranh và các báo cáo tình báo đáng lo ngại đã khiến Tổng thống Thiệu hủy bỏ lệnh ngừng bắn. Tương tự, Tướng Trưởng cũng ban hành lệnh triệu tập quân lính trở về đơn vị ở Huế, nhưng phần lớn đã về quê nghỉ Tết. Trưởng triển khai các trung đội Hắc Báo tại các vị trí chiến lược trên toàn thành phố, bao gồm Sân bay Tây Lộc.
Trước bình minh ngày 31 tháng 1, hơn 80.000 quân QĐNDVN và Quân Giải Phóng tấn công hơn 70 địa điểm trên khắp miền Nam Việt Nam. Tại Huế, một quả pháo sáng vào lúc 2:30 sáng đã phát động cuộc tấn công. Dưới vỏ bọc của pháo cối và hỏa tiễn, các tiểu đoàn QĐNDVN trong bộ quân phục xanh mới tinh và Quân Giải Phóng mặc đồ đen nhanh chóng tiến về Huế. Cuộc tấn công chính đến từ phía tây nam trong khi các du kích Cộng sản đã có mặt trong thành phố tấn công các toán quân VNCH và cảnh sát đang canh gác các cổng thành từ bên trong.
Trận chiến ở Huế: Những diễn biến đầu tiên
Các Tiểu đoàn 800 và 802 thuộc Trung đoàn 6 QĐNDVN cùng Tiểu đoàn Đặc công Việt Cộng 12 tấn công qua các cửa Tây Nam hướng tới khu căn cứ Mang Cá và Sân bay Tây Lộc. Một nhóm nhỏ QĐNDVN đột nhập được vào căn cứ, nhưng sau trận chiến ác liệt, lực lượng hỗn hợp khoảng 200 nhân viên tham mưu và hỗ trợ của tướng Trương đẩy lùi được đợt tấn công.
Tại Sân bay Tây Lộc, đơn vị quân giới ARVN và trung đội Hắc Báo chống trả quyết liệt và giữ được một số tòa nhà, mặc dù toàn bộ máy bay bị phá hủy. Khi tình hình tại sân bay ổn định, Tướng Trương cho gọi các trung đội Hắc Báo trở về tăng cường cho khu Mang Cá. Đồng thời, ông liên lạc với cấp trên trực tiếp của mình, Trung tướng Hoàng Xuân Lâm, Tư lệnh Quân đoàn 1 QLVNCH, yêu cầu tăng viện. Tướng Lâm đồng ý và điều động Tiểu đoàn 2 và 7 Nhảy Dù thuộc quyền chỉ huy của Tướng Trương.
Trong cuộc tấn công, một số đơn vị QĐNDVN, vốn là người miền Bắc và không quen thuộc với Huế, bị tách ra và đi chệch hướng khi di chuyển qua thành phố. Khi người dẫn đường cho Tiểu đoàn 806 bị giết, tiểu đoàn này bị lạc đường và không kịp tham gia vào cuộc tấn công ở Mang Cá. Nhiều trung đội và tiểu đội bị phân tán để canh gác các vị trí quan trọng và ngã tư đường, khiến lực lượng QĐNDVN càng bị chia cắt.
Hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 4 QĐNDVN (804, 815 và 818) cùng Tiểu đoàn Đặc công Thành phố Huế tiến đánh vùng Tam Giác và ngoại ô phía Nam và phía Đông. Tuy nhiên, chỉ có Tiểu đoàn 804 đến đúng giờ, một tiểu đoàn khác bị chậm trễ khi bị vướng ở một tiền đồn phòng thủ địa phương, và tiểu đoàn thứ ba bị lạc đường.
Khi Tiểu đoàn 804 QĐNDVN tấn công khu cố vấn MACV, một lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ cảnh giác trên tháp can phát hiện ra và xả súng máy M-60. Lính Mỹ bên trong nhanh chóng chiếm lĩnh các lô cốt và vị trí phòng thủ, đánh bật hai đợt tấn công. Thất bại trong việc đánh chiếm khu cố vấn, lính Việt Nam tiếp tục dùng súng cối, B40, và súng máy để quấy rối.
Ngoại trừ hai khu vực MACV và Mang Cá, đến khi trời sáng, quân Cộng sản kiểm soát phần lớn thành phố, bao gồm Hoàng cung, trụ sở tỉnh và các cơ quan chính quyền khác. Họ chiếm 11 trong số 12 cổng thành, chỉ còn cổng gần Mang Cá nhất vẫn nằm trong tay Tướng Trương. Cờ xanh đỏ sao vàng, kết hợp giữa cờ Việt Cộng và Quốc kỳ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tung bay trên cột cờ gần Hoàng Cung.
Các cán bộ chính trị bắt đầu lùng sục bắt giữ người nước ngoài và những người Việt Nam được coi là “phản quốc” có tên trong danh sách đã được chuẩn bị sẵn. Một số người được đề nghị gia nhập, những người khác bị bắt đi và không bao giờ được nhìn thấy nữa, trong đó có nhiều người Âu Mỹ. Trước sự thất vọng của các cán bộ chính trị, người dân trong thành phố phần lớn vẫn thờ ơ với “sự giải phóng”. Nhiều người dân được huy động đào hào, xây công sự và vận chuyển nhu yếu phẩm.
Ở làng Thôn La Chữ, ba dặm về phía tây Huế, Mặt trận Thành phố Huế đặt tổng hành dinh trong một boongke ngầm ba tầng. Được xây dựng bởi một quan chức Việt Nam Cộng Hòa (về sau được tiết lộ là người ủng hộ Cộng sản), boongke này dùng làm nơi trú bom, nhưng thực là sở chỉ huy của Mặt trận.
Do liên lạc ban đầu giữa các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam chưa tốt, bộ chỉ huy Mặt trận không biết rằng cầu Nguyễn Hoàng và An Cựu vẫn còn nguyên sau khi các đơn vị biệt kích được cử đi phá hủy bị lực lượng địa phương tiêu diệt.
Được tướng Trương cảnh báo, một số đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hòa cố gắng tiến vào Huế. Hai tiểu đoàn dù và một trung đội từ Thiết đoàn 7 Kỵ binh di chuyển về phía thành phố từ PK-17 ở phía bắc. Họ vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của Quân đội Nhân dân Việt Nam và buộc phải dừng lại sau khi chịu thương vong. Ngày hôm sau, một đội tuần tra từ Hắc Bào dẫn đường vòng quanh Thành Nội từ phía bắc đến khu Mang Cá.
Ở phía nam thành phố, phần còn lại của Thiết đoàn 7 Kỵ binh, gồm các xe tăng hạng nhẹ M24 Chafee của Mỹ và thiết giáp M113, di chuyển từ trại Tam Thái và ngay trước cầu An Cựu, bị phục kích, mất vài xe tăng, thiết giáp và chỉ huy trưởng tử trận. Phần còn lại của Thiết đoàn phải rút lui vài dặm về phía Nam trên Quốc lộ 1.
Tiểu đoàn 2 và 3 của Trung đoàn 3 thuộc quyền tướng Trương gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của đối phương và phải dừng lại ở phía tây nam thành phố. Tiểu đoàn 1 và 4, di chuyển từ phía Đông Nam, bị bao vây. Tiểu đoàn 1 xoay xở thoát khỏi vòng vây, chạy về phía bờ biển và tiến được vào Thành Nội vào ngày hôm sau. Tiểu đoàn 4 không thể thoát ra trong vài ngày.
Trong khi cuộc chiến đang diễn ra ác liệt tại khu cố vấn quân sự MACV, Đại tá Adkisson liên lạc với Lực lượng Đặc nhiệm X-Ray yêu cầu trợ giúp. Tướng LaHue điều động đơn vị sẵn có duy nhất, Đại đội A dưới quyền Đại úy Gordon Batcheller, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (1/1st) đến giải cứu khu cố vấn MACV. Thủy quân lục chiến di chuyển bằng xe tải, cùng với 2 xe M42 Duster – pháo phòng không tự hành được trang bị pháo 40mm kép và 2 xe tải có súng máy M45 Quad .50.
Ở phía nam thành phố, Đại đội A đụng độ bốn chiếc xe tăng M48 Patton của Thủy quân lục chiến (hai xe được trang bị pháo 90mm và hai xe tăng phun lửa “Zippo”) từ Tiểu đoàn 3 Xe tăng Mỹ. Những chiếc xe tăng này đang trên đường đến bến tàu Hải quân Hoa Kỳ ở Huế để di chuyển về phía bắc đến Đông Hà, và dừng lại khi chạm trán với xác các xe tăng, thiết giáp M113 của Thiết đoàn 7 Kỵ binh. Sau khi trao đổi ngắn với Đại úy Batcheller, bốn chiếc xe tăng dẫn đường đến Huế.
Khi đoàn quân tiến sát thành phố, họ gặp ngày càng nhiều kháng cự từ quân địch. Họ phải chiến đấu cam go mới băng được qua cầu An Cựu dưới làn đạn súng máy, rốc-két, và cả đạn B-40. Thương vong rất cao, bao gồm cả Đại úy Batcheller bị trọng thương. Đội quân bị tổn thất nặng nề phải thiết lập vị trí phòng thủ.
Ngay sau buổi trưa, Tướng LaHue cử Trung tá Marcus Gravel, chỉ huy Tiểu đoàn 1/1 Thủy quân lục chiến, cùng với Đại đội G của Tiểu đoàn 2/5 Thủy quân lục chiến (vừa đến nơi) tiến bước theo Đại Đội A. Sau khi tiếp cận Đại đội của Batcheller và hứng chịu thương vong dọc đường, Gravel hợp nhất hai đại đội. Ông cho đưa người bị thương và tử trận về Phú Bài bằng xe tải, rồi đích thân dẫn bốn xe tăng cùng toàn đoàn quân tiến tới khu cố vấn MACV, đến nơi vào khoảng 3 giờ chiều.
Sau khi Gravel tới được khu cố vấn, Tướng LaHue, chưa nắm vững tình thế thực tại ở Huế, ra lệnh cho Gravel tiếp tục đến Thành Nội để giải vây cho lực lượng của Tướng Trưởng. Đại đội A thương vong quá nửa, không đủ khả năng tiến tiếp. Họ mở rộng phòng tuyến về phía nam của cầu Nguyễn Hoàng và bảo vệ bến tàu của Hải quân.
Xe tăng M48 của Thủy quân lục chiến quá nặng nên không thể qua cầu, chúng nằm lại bờ phía nam để hỗ trợ hỏa lực. Đại đội G băng bộ qua cầu trong mưa đạn khốc liệt từ Thành Nội. Hai trung đội tiến sát được tới dải đất hẹp giữa cầu và tường thành, nhưng chôn chân tại đó và không thể tiến thêm. Trời tối nhanh và thương vong tăng cao, khiến Gravel phải ra lệnh rút lui. Rút lui mà không bỏ rơi thương binh và tử sĩ, Đại đội G băng ngược cầu, mất thêm một phần ba quân số.
Trong đêm, một trực thăng CH-46 của Thủy quân lục chiến đáp xuống công viên gần bến tàu Hải quân giữa làn đạn để tiếp tế đạn dược và đưa thương binh đi.
Vào ngày 1 tháng 2, Trung tướng Hoàng Xuân Lãm và Trung tướng Robert Cushman, tư lệnh Quân đoàn Viễn chinh Thủy quân lục chiến III, họp tại Đà Nẵng. Hai tướng lĩnh thống nhất là Quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ giải phóng khu vực phía Bắc bờ sông, và Thủy quân lục chiến sẽ phụ trách khu phía Nam. Do tầm quan trọng lịch sử của cố đô, họ quyết định không dùng vũ khí hạng nặng, pháo binh hay không kích để hạn chế thiệt hại cho thành phố.
Vẫn không nắm rõ tình hình ở Huế, Tướng LaHue ra lệnh cho Gravel tiến đến nhà tù, nằm cách khu cố vấn MACV bảy khu phố về phía tây, nơi một nhóm nhỏ quân VNCH vẫn cố gắng cầm cự. Sau khi phản đối bất thành, Gravel cử Đại đội G của Đại úy Meadows đi, có xe tăng Patton dẫn đầu. Ngay khi rời khỏi khu cố vấn, Đại đội G gặp hỏa lực súng máy dữ dội. Quân Giải phóng biến mỗi tòa nhà thành vị trí phòng ngự, quét dọc các con đường bằng hỏa lực súng máy đáng sợ. Thủy quân lục chiến thành thạo tác chiến rừng rậm và ruộng lúa Việt Nam, nhưng chiến đấu đường phố là trải nghiệm hoàn toàn khác. Cho tới khi họ tìm thấy bản đồ thành phố ở một trạm xăng Texaco, các sĩ quan Thủy quân lục chiến không hiểu rõ về thành phố và phải mò mẫm hướng đi. Sau cùng, sau ba giờ chiến đấu, Thủy quân lục chiến của Meadows chiếm được Đại học Huế nhưng không thể tiến thêm.
Đại úy Michael Downs chỉ huy Đại đội F, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Thủy quân Lục chiến 5 đổ bộ bằng trực thăng vào Huế sáng hôm đó. Gravel giao cho Downs nhiệm vụ giải cứu lực lượng kỹ thuật viên Lục quân và Không quân Mỹ bị đối phương vây hãm tại trung tâm thông tin cách khu hội chính vài dãy nhà. Một trung đội của Downs bị phục kích và phải tháo chạy, mang theo thương vong về tuyến sau.
Hai tiểu đoàn dù của tướng Trương tái chiếm được Sân bay Tây Lộc trong Thành Nội, nơi đại đội công binh vẫn đang cố thủ trong một số tòa nhà. Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 3 Sư đoàn Bộ binh ARVN tiến đến Mang Cá, trong khi trực thăng Thủy quân Lục chiến thả hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 2 ARVN dưới hỏa lực dày đặc của đối phương. Thời tiết xấu và bóng tối buông xuống khiến phần còn lại của tiểu đoàn không thể triển khai. Đến cuối ngày, lực lượng của tướng Trương dọn sạch khu vực phía tây bắc Thành Nội.
Do liên lạc giữa các đơn vị Mặt trận thành phố Huế vẫn còn hạn chế, bộ chỉ huy không biết rằng cầu An Cựu vẫn còn nguyên vẹn. Nhờ vậy, Lực lượng Đặc nhiệm X-Ray tiếp tục nhận được tăng viện, tiếp tế từ Phú Bài và di tản thương binh. Một đoàn xe đưa Đại đội H, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Thủy quân Lục chiến 5 do Đại úy Ronald Christmas chỉ huy cùng với hai xe tăng M-50 Ontos tiếp ứng. Ontos (“vật thể” trong tiếng Hy Lạp) là một loại xe bọc thép hạng nhẹ, trang bị sáu khẩu pháo không giật 106mm, bốn súng trường .50, và một súng máy .30.
Trung tá Ernest Cheatham, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2/5 Thủy quân Lục chiến và Đại tá Stanley Hughes, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Thủy quân Lục chiến đến Huế vào ngày hôm sau cùng với Đại đội B, Tiểu đoàn 1. Nhận thấy thiếu kinh nghiệm tác chiến trong đô thị, Cheatham tìm được hai cuốn sách hướng dẫn chiến đấu: “Chiến đấu trong khu vực đô thị hóa” và “Tấn công vị trí kiên cố”. Bài học chính mà Cheatham rút ra là phải tránh đường phố càng nhiều càng tốt và di chuyển bằng cách đục lỗ xuyên qua các bức tường. Vì mục đích đó, ông thu thập tất cả các loại bazooka có sẵn tại Phú Bài và sáu khẩu pháo không giật 106mm.
Ngày 3 tháng 2, Hughes và Cheatham đến khu MACV, bổ sung quân số và đón các tình nguyện viên từ Phú Bài. Khi đến nơi, Hughes tiếp quản quyền chỉ huy từ Gravel. Cheatham giờ có ba đại đội thuộc tiểu đoàn (đại đội thứ tư vẫn ở ngoài chiến trường) và Gravel còn một đại đội thuộc tiểu đoàn của ông, Đại đội A, sẽ đến vào ngày hôm sau. Cheatham quyết định tấn công về phía tây với Đại học Huế làm căn cứ tác chiến. Đại đội A bị thiệt hại nặng hai ngày trước sẽ mở rộng chu vi phòng thủ xung quanh bến tàu và dọn dẹp đường tiếp cận Quốc lộ 1.
Cùng với sự tăng cường hiện diện của ARVN và Mỹ tại Huế, Mặt trận Thành phố Huế tại thôn La Chữ đảm bảo nguồn tiếp viện và nhu yếu phẩm ổn định cho các đơn vị PAVN trong thành phố. Theo yêu cầu của tướng Cushman, tướng Westmoreland ra lệnh cho tư lệnh Sư đoàn 1 Kỵ binh Không vận Hoa Kỳ, Thiếu tướng John Tolson cắt đứt các tuyến tiếp vận của đối phương. Tolson giao nhiệm vụ này cho Đại tá Hubert Campbell, chỉ huy Lữ đoàn 3 của sư đoàn.
Pháo binh của lữ đoàn tại căn cứ Evans, cách Huế 24 dặm về phía bắc, quá xa để hỗ trợ cuộc tấn công. Mật độ phòng không dày đặc tại khu vực khiến trực thăng không thể đổ bộ ngay gần Huế. Vào ngày 2 tháng 2, trực thăng vận chuyển Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 12 Kỵ binh do Trung tá Richard Sweet chỉ huy đến PK-17, 7 dặm về phía bắc của Huế, từ đó các kỵ binh sẽ tiến công bằng đường bộ.
Ngày 3 tháng 2, 400 lính thuộc Tiểu đoàn 12 di chuyển trong màn mưa tầm tã, không được pháo binh hỗ trợ. Sweet quyết định thực hiện chiến thuật đánh vòng xuống phía nam nhằm tránh các cuộc mai phục tiềm tàng dọc Quốc lộ 1. Khi tiếp cận ngôi làng Thôn La Chu – đại bản doanh Mặt trận Thành phố Huế, nơi được phòng thủ cực kỳ nghiêm ngặt – trung đội của Sweet chạm trán hỏa lực mạnh từ các vị trí cố thủ của địch núp sau rặng cây. Bị kẹt giữa khu đất trống, các binh sĩ Mỹ dính đạn sượt và hứng chịu cối. Suốt cả ngày, họ bị cuốn vào một cuộc đấu súng căng thẳng, trong khi trực thăng liên tục sà xuống chở đạn và sơ tán thương binh. Thương vong tăng cao, nếu cứ tiếp tục cố thủ, trung đội sẽ bị nghiền nát. Sweet ra lệnh cho binh lính tấn công thẳng vào vị trí của địch. Dù gánh thêm thương vong, lực lượng Mỹ vẫn chiếm được rặng cây và thiết lập phòng tuyến. Tầm mây thấp cản trở không quân yểm trợ.
Khi màn đêm buông xuống, lực lượng của Sweet sụt từ 400 xuống còn 200 lính. Giữ nguyên vị trí là điều không thể, vì vậy Sweet quyết định rút lui về phía tây, sau đó đánh bọc sườn Thôn La Chu. Trong đêm 3-4 tháng 2, trung đội thưa thớt nhân lực lặng lẽ rút đi mà không bị địch phát hiện.
Từ ngày 4 tháng 2, Thủy quân Lục chiến Mỹ trong khu vực Tam Giác bắt đầu đạt được những bước tiến nhỏ. Trận cận chiến cực kỳ khốc liệt, băng qua đường dưới làn đạn chẳng khác nào tự sát, xông vào một tòa nhà qua cửa chính hay cửa sổ cũng đồng nghĩa nguy hiểm rình rập. Trước khi tiến vào, lính Mỹ sẽ dùng thuốc nổ C4 tạo một lỗ trên tường, sau đó lựu đạn sẽ được quăng vào.
Được xây dựng theo phong cách thuộc địa Pháp, các tòa nhà đều có tường dày để giữ mát, chính vì vậy, súng chống tăng M72 LAW nhẹ ký mà Thủy quân Lục chiến mang theo thường chẳng đủ sức công phá. Các khẩu súng không giật 106mm, cả loại đặt trên giá ba chân lẫn gắn trên xe Ontos, tỏ ra vô cùng hiệu quả. Đạn nặng 9kg của chúng dễ dàng xé toạc mảng tường lớn hoặc thậm chí là sập hẳn cả bức tường. Xe Ontos, với ưu điểm nhẹ và nhanh, sẽ bất ngờ lao ra từ vị trí ẩn nấp, nhả trọn 6 loạt đạn, rồi lập tức rút lui. Ngoài ra, những loạt đạn từ súng cối 81mm có thể khiến cả một mái nhà sập xuống đầu binh lính địch.
Mọi chiếc xe tăng lăn bánh vào một con phố đều sẽ bị pháo B40 “tỉa” tới tấp, có chiếc phải hứng gần 100 phát đạn. Giáp đủ dày để bảo vệ xe khỏi bị phá hủy, tuy vậy thương vong vẫn xảy ra trong kíp lái. Ban đầu, Thủy quân Lục chiến bị cấm sử dụng pháo tăng và súng phun lửa trong thành phố, chỉ được sử dụng xe tăng như tấm chắn di động cho bộ binh và bệ đặt súng máy. Nhưng càng đánh lâu, các lệnh cấm càng bị phớt lờ.
Tòa nhà Ngân khố với những bức tường siêu dày tỏ ra bất khả xâm phạm ngay cả trước súng 106mm, mãi cho đến khi Thiếu tá Ralph Salvati, chỉ huy thứ hai của Tiểu đoàn 5, mang súng phóng lựu đạn khói cay E8 CS từ khu vực cố vấn Mỹ (MACV) đến. Súng khai hỏa 64 quả theo loạt 4 quả, trút làn khói dày đặc lên tòa nhà, lính Thủy quân Lục chiến đeo mặt nạ phòng độc theo sau chiếm đóng. Bị thiếu mặt nạ, binh lính Quân đội Nhân dân Việt Nam buộc phải bỏ chạy.
Ngay sau khi Đại đội B, Tiểu đoàn 1 Thủy quân Lục chiến đến khu vực Tam Giác từ Phú Bài, phía Việt Nam cuối cùng cũng đánh sập được cầu An Cựu. Việc tiếp tế giờ đây sẽ phải được thực hiện bằng trực thăng và tàu thuyền, mà tất cả đều nằm trong tầm hỏa lực của địch.
Cuộc tấn công của Thủy quân Lục chiến dọc theo bức tường phía đông của Hoàng Thành ngay lập tức vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ. Boongke, chiến hào và lính bắn tỉa có mặt ở khắp mọi nơi. Sự kháng cự của đối phương dường như dai dẳng hơn ở khu vực Tam Giác và cuộc tấn công của Mỹ tạm thời bị đình trệ trước số thương vong ngày càng tăng.
Ở phía tây của Hoàng Thành, Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng Hòa gặp rất nhiều khó khăn sau khi tiếp viện cho Trung Đoàn 3 bị tàn phá. Lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa thiếu vũ khí hạng nặng, chẳng hạn như súng không giật 106mm được Thủy quân Lục chiến sử dụng rất thành công. Thương vong của họ cao hơn hẳn so với phía Mỹ.
Do yêu cầu của chính phủ Việt Nam Cộng hòa nhằm bảo tồn các di tích lịch sử của Hoàng Thành, bộ chỉ huy quân Mỹ hạn chế sử dụng pháo binh và không kích. Tuy nhiên, do sự kháng cự mạnh mẽ của đối phương, Hughes cuối cùng được phép sử dụng hỏa lực tối đa, ngoại trừ việc bắn vào Hoàng Cung.
Từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 2, được tăng cường lực lượng bởi đại đội thứ tư của Thompson và được hỗ trợ bởi xe tăng M48, Thủy quân Lục chiến chiến đấu giành các vị trí xung quanh Cổng Đông Ba được bảo vệ nghiêm ngặt và ngọn tháp đồ sộ của nó ở bức tường phía đông của Hoàng Thành. Ngay cả sau khi tòa tháp bị phá hủy bởi pháo binh, hải pháo và không kích, quân Bắc Việt vẫn ngoan cường bám trụ trong đống đổ nát trước khi từ bỏ vị trí.
Cuộc tiến công về phía nam dọc theo bức tường tiếp tục vào ngày 16 tháng 2 dưới làn đạn nặng nề từ đảo Gia Hội ở sông Hương về phía đông và từ các bức tường của Hoàng Cung ở phía tây. Trong khi Thủy quân Lục chiến có thể kêu gọi hỏa lực chi viện vào bức tường ngoài của thành cổ, quân Mỹ không thể hỗ trợ lực lượng Việt Nam Cộng hòa đang hứng chịu hỏa lực từ Hoàng Cung.
Quân Bắc Việt liên tục phản công và giao tranh diễn ra theo kiểu giành giật từng nhà, từng phòng. Bộ chỉ huy Mặt trận Thành phố Huế biết rằng cuối cùng họ sẽ bị đánh bại, nhưng họ cố bám trụ lâu nhất có thể để gây tiếng vang chính trị cho cuộc đấu tranh của mình.
Thompson và bộ tham mưu của ông xác định được một mô hình trong các hành động tác chiến của quân Bắc Việt. Khi giao tranh lắng xuống vào ban đêm, quân Bắc Việt sẽ tạm thời rút lui khỏi các vị trí để chiếm lại chúng vào sáng hôm sau. Để tận dụng quy luật này, Thompson phát động một cuộc tấn công dưới bóng tối lúc 3 giờ sáng ngày 21 tháng Hai. Một trung đội từ Đại đội A, được chia làm ba nhóm nhỏ, chiếm giữ các tòa nhà được xác định là chìa khóa cho các vị trí phòng thủ của đối phương.
Khi binh lính Bắc Việt tiếp cận vị trí vào buổi sáng, họ rơi vào tầm đạn của Thủy quân Lục chiến. Phần còn lại của tiểu đoàn của Thompson tiến lên để đảm bảo các khu vực chiếm đóng và đến cuối ngày, Thủy quân Lục chiến tiến đến trong vòng 100 mét từ bức tường phía nam. Cùng ngày, hai tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng hòa mới đến quét sạch những ổ kháng cự cuối cùng ở phía đông nam Huế.
Vào khoảng 21-22 tháng Hai, sự kháng cự của đối phương tại các thôn xóm quanh Thôn La Chữ bắt đầu suy yếu. Trong đêm, quân địch bắt đầu rút lui về gần Huế hơn. Đến cuối ngày 22 tháng Hai, đối phương chỉ còn kiểm soát được Hoàng Thành và góc Tây Nam Thành Nội. Sau khi thủy quân lục chiến Việt Nam Cộng hòa chiếm lại Hoàng Thành, Mặt trận Huế ra lệnh cho các đơn vị rút về vùng núi phía Tây.
Đến ngày 25 tháng 2, tàn quân Việt Nam Cộng Sản hoàn toàn bỏ Thành Nội, cố gắng chạy trốn về phía bắc và phía tây dưới làn pháo kích liên tục của quân đội Mỹ. Sau vài ngày giao tranh nhỏ lẻ, phía Mỹ tuyên bố trận chiến Huế kết thúc vào ngày 2 tháng Ba.
Cố đô Huế xinh đẹp chỉ còn là một đống đổ nát. Hơn 70% nhà cửa và phần lớn cơ sở hạ tầng bị hư hại. Xác thường dân và binh lính Việt Nam Cộng Sản nằm la liệt khắp nơi. Sau trận đánh, người ta phát hiện một số hố chôn tập thể chứa hơn 3.000 thi thể trong vùng lân cận của Huế, nhiều người có dấu hiệu bị tra tấn và hành quyết. Bất chấp bằng chứng rõ ràng, lãnh đạo Cộng sản chỉ thừa nhận số ít người thiệt mạng dưới tay họ. Tính cả những người được tìm thấy trong các hố chôn tập thể, số thường dân thiệt mạng ước tính hơn 5.000 người.
Cuộc giao tranh ở Huế là trận chiến kéo dài nhất của Chiến tranh Việt Nam. Việc liên tục đánh giá thấp tình hình thực tế của các tướng Westmoreland và LaHue đã khiến họ không đủ lực lượng và hỏa lực để bảo vệ Huế. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ có 147 người tử trận và 857 người bị thương; Lục quân Hoa Kỳ mất 74 người và 507 người bị thương. Thương vong của Quân lực Việt Nam Cộng hòa là 421 người chết, 2.123 người bị thương và 30 người mất tích. Ước tính thương vong của Việt Nam Cộng Sản dao động lớn, từ 2.500 đến 5.000 người thiệt mạng.
Mặc dù thường không được đánh giá cao cho lắm, dưới sự lãnh đạo của Tướng Trưởng, các lực lượng Việt Nam Cộng hòa đã chiến đấu kiên cường và chịu phần lớn gánh nặng của trận đánh trong Thành Nội, thể hiện rõ qua thương vong so với quân Mỹ.
Mặc dù các cuộc tấn công của Việt Nam Cộng Sản trên khắp miền Nam Việt Nam đã bị đánh bại sau vài ngày, trận chiến Huế vẫn là chiến dịch thành công nhất trong Tết Mậu Thân. Vào thời điểm trận chiến kết thúc, có hơn 8.000 quân chính quy Việt Nam Cộng Sản, tương đương với hai sư đoàn được trang bị súng cối và súng không giật, đã tham chiến cho thành phố. Tuy nhiên, việc Việt Nam Cộng Sản không chiếm được Mang Cá và khu căn cứ MACV đã cho phép quân Đồng Minh sử dụng chúng làm bàn đạp để tiến hành các cuộc phản công giải phóng thành phố. Tương tự như vậy, việc không phá hủy được cầu Nguyễn Hoàng và An Cựu đã giúp quân Mỹ đưa quân tiếp viện đến vào những ngày đầu tiên của trận chiến.
Dù đã chiếm đóng được thành phố lớn thứ ba của Việt Nam Cộng hòa trong một tháng, mục tiêu chính của Tết Mậu Thân—gây ra một cuộc nổi dậy—đã thất bại. Phần lớn dân chúng miền Nam Việt Nam vẫn dửng dưng, chỉ quan tâm đến sự sinh tồn và mong ước được sống những ngày bình yên.
Mặc dù không đạt được thắng lợi chính trị trong nước, phía Cộng sản đã ghi được một thắng lợi lớn ở nước ngoài, đặc biệt là ở Hoa Kỳ. Hình ảnh chết chóc, đổ nát và thương vong ngày càng tăng được truyền hình đưa đến các gia đình Mỹ, có tác động tiêu cực đến dư luận Mỹ về cuộc chiến.
Dịch từ Warfare History Network