Chúng ta thường nghe hai câu “Rước voi về giày mả tổ, cõng rắn cắn gà nhà” để chỉ trích, lên án hai vị vua trong lịch sử Việt Nam là vua Lê Chiêu Thống và vua Gia Long. Hai câu này hàm ý nặng nề về tội “bán nước”, khiến nhiều người mặc định xem đây là chân lý. Tuy nhiên, lịch sử luôn đòi hỏi ta phải đặt mình vào bối cảnh cụ thể, thay vì đánh giá chỉ qua những lời truyền khẩu. Bài viết dưới đây xin điểm lại bối cảnh “vạn bất đắc dĩ” khiến hai vị vua ấy phải cầu viện ngoại bang, hầu mong giữ vững hay khôi phục cơ nghiệp Tổ Tiên.
Bối cảnh câu nói
Trước hết, cần khẳng định rằng hai câu “Rước voi về giày mả tổ” và “cõng rắn cắn gà nhà” thoạt nghe rất mạnh mẽ, nhưng lại có phần phiến diện khi quy kết mọi tội lỗi lên hai nhân vật lịch sử. Sở dĩ hai câu này trở nên phổ biến do một số người viết sử (hay thường tự xưng “sử gia”), vì những định kiến hằn sâu, đã gán ghép tội bán nước cho Lê Chiêu Thống (tức vua Chiêu-Thống Lê Duy Kỳ) và Gia Long (Nguyễn Phước Ánh).
Chúng ta cũng nên lưu ý rằng, không riêng gì hai vị vua này, mà từ xưa đến nay, một số nguyên thủ quốc gia ở nhiều nước khác cũng từng “vạn bất đắc dĩ” phải cầu ngoại viện. Quan hệ giữa các quốc gia thường ít khi chỉ đơn thuần “giúp đỡ vô tư” như giữa những cá nhân thân thiết; thực tế luôn hàm chứa tính toán trục lợi, buộc bên nhận giúp đỡ sớm muộn gì cũng phải trả giá rất đắt. Vì vậy, nếu đã ở vào thế nguy cấp, một vị quân vương cũng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tìm kiếm cứu viện từ bên ngoài.
Điều quan trọng là khi nhờ ngoại bang giúp, vị quân vương cần chuẩn bị cách “trả nợ” ít thiệt hại nhất cho đất nước. Bởi lẽ, việc “mời” lực lượng nước ngoài vào nội bộ quốc gia, dù là chuyện “vạn bất đắc dĩ”, không bao giờ đơn giản. Mọi sai lầm hay sự chủ quan đều có thể dẫn đến tai họa lớn cho cả dân tộc.
Nói riêng về lịch sử Việt Nam, những nhà vua, nguyên thủ qua các triều đại – kể từ khi dựng nước đến thế kỷ XXI – chưa có ai vì ngu muội hay cố ý “rước voi về giày mả tổ, cõng rắn cắn gà nhà” để bán rẻ giang sơn. Ở các bối cảnh khác nhau, họ buộc phải đưa ra quyết định nặng nề, đôi khi khó tránh tổn hại, nhưng phần nhiều đều xuất phát từ thế yếu, “vạn bất đắc dĩ”, mong cứu vãn tình thế.
Thêm vào đó, theo mô hình quân chủ xưa ở nước ta, chịu ảnh hưởng Nho giáo, Triều đại gắn với Đất nước. Chống lại triều đại đương thời cũng bị xem như chống lại đất nước. Các vị vua mới lên thay triều đại trước, hoặc vì tình thế ngoại xâm, hoặc vì triều trước đã quá suy tàn, gian thần lộng quyền… nên buộc phải tự xưng vương, xưng đế. Tất cả đều coi là “Mệnh Trời” (Thiên Tử). Khi kế vị, nhà vua không chỉ lo “trị quốc, an dân” mà còn gánh thêm trách nhiệm gìn giữ triều đại do tổ tiên để lại. Chẳng hạn, Lê Chiêu Thống là vua cuối cùng của nhà Lê, lên ngôi trong tình cảnh rối ren, phải liệu đủ cách duy trì cơ nghiệp kéo dài hơn 300 năm; còn Gia Long không chỉ gìn giữ dòng họ Nguyễn Phước, mà còn muốn khôi phục vùng đất rộng lớn do các Chúa Nguyễn dày công mở mang qua nhiều thế hệ.
Rước voi về giày mả tổ – Vua Lê Chiêu Thống
Trong lịch sử, vua Lê Chiêu Thống (Lê Duy Kỳ) bị chê bai, chỉ trích nặng nề vì cầu viện quân Thanh, khiến quân Thanh đặt chân sang nước ta. Chính vì sự kiện này, người đời gán cho nhà vua tội danh “rước voi về giày mả tổ”. Song, hãy ngược dòng thời gian, xem bối cảnh loạn lạc lúc bấy giờ: triều Lê vốn đã suy yếu, nội bộ rối ren với các thế lực Trịnh Bồng, Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ, Dương Trọng Khiêm… Nhà vua không đủ tài lực, binh quyền, cũng không có tiền của. Thế nhưng, trách nhiệm gìn giữ cơ nghiệp gần bốn thế kỷ của nhà Lê lại đè nặng trên vai vua Chiêu Thống.
Khi Nguyễn Hữu Chỉnh (được vua Tây Sơn Nguyễn Huệ cho trấn thủ Nghệ An) hưởng ứng chiếu Cần Vương, đánh tan quân Trịnh, Lê Chiêu Thống cứ ngỡ có thể khôi phục vương quyền. Đáng tiếc, người mà vua Lê đặt niềm tin lại sớm lộ dã tâm, muốn thao túng, mưu tính riêng. Từ đó, vua Tây Sơn lại đưa Vũ Văn Nhậm ra Bắc, giết Nguyễn Hữu Chỉnh. Vua Lê Chiêu Thống bèn lánh ra Kinh Bắc.
Sau nhiều biến cố, Thái hậu và hoàng tử (con vua Lê Chiêu Thống) phải sang Long Châu (thuộc nhà Thanh) cầu cứu Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị, Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh. Vua Thanh Càn Long chấp thuận, sai điều quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu kéo sang Đại Việt. Lê Chiêu Thống được Tôn Sĩ Nghị đưa về Thăng Long, phong làm “An Nam Quốc Vương”.
Thấy quân Thanh xâm phạm bờ cõi, Nguyễn Huệ ngay lập tức lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Quang Trung, dẫn đại binh thần tốc ra Bắc, đánh tan quân Thanh, chiếm lại Thăng Long vào mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (tức 30/1/1789). Vua Lê Chiêu Thống phải chạy sang Trung Quốc cùng tàn quân Tôn Sĩ Nghị, tiếp tục trông chờ Càn Long giúp thêm, nhưng nhà Thanh lúc đó không mặn mà với chiến tranh, chỉ phong hão cho Quang Trung cũng là “An Nam Quốc Vương”.
Thất thế, không còn hy vọng, vua Lê Chiêu Thống sống cảnh lưu vong nơi đất khách, bị phân tán, không thể liên hệ với tông thất. Năm 1792, con trai duy nhất của nhà vua mất, tâm trạng nhà vua càng tuyệt vọng, chán chường, rồi lâm bệnh băng hà năm 1793. Sau đó, nhà Thanh an táng theo nghi thức tước Công. Mãi đến năm 1804, thời Gia Long, linh cữu vua Lê mới được rước về táng ở lăng Bàn Thạch, Thanh Hóa.
Ta thấy rõ việc cầu viện quân Thanh của Lê Chiêu Thống chỉ là bước “vạn bất đắc dĩ”, chẳng qua muốn bảo vệ cơ nghiệp nhà Lê. Dưới triều Tự Đức, vua Dực Tông Anh cũng thương cảm viết:
“Nhà vua bị người ta lừa gạt, bị giám buộc ở quê người đất khách, đến nỗi lo buồn phẫn uất, ôm hận mà chết, thân dẫu chết, nhưng tâm không chết… kể cũng đáng thương!”
Có lẽ vì thế, vua Tự Đức truy tôn Lê Chiêu Thống là “Mẫn Đế”, và đến triều Kiến Phước (1884) được phong “Mẫn Hoàng Đế”. Trong đền thờ các vua Lê ở Thanh Hóa, vua Lê Chiêu Thống được thờ với tôn hiệu “Nghị Hoàng Đế”.
Điểm thú vị là chính con vua Quang Trung, tức Quang Toản, cũng từng cầu viện nhà Thanh khi bị Gia Long tấn công (năm 1801). Tuy nhà Thanh không giúp, nhưng hành vi “cầu viện” ấy rõ ràng cho thấy, bất kỳ ai rơi vào thế yếu và vẫn muốn nắm giữ hoàng vị đều hành động theo lối “cấp cứu” ấy. Thế nên, liệu có chính xác không khi cứ hễ nói tới Lê Chiêu Thống là phủ nhận hoàn toàn, rồi quy chụp “bán nước”?
Bài Liên Quan
Cõng rắn cắn gà nhà – Vua Gia Long
Bên cạnh Lê Chiêu Thống, Nguyễn Ánh (Gia Long) bị một số người gán cho tội “cõng rắn cắn gà nhà” bởi ông đã cầu viện quân Xiêm và sau đó là sử dụng nhóm người Pháp phiêu lưu thời bấy giờ. Tuy vậy, nếu tìm hiểu kỹ hoàn cảnh, sẽ thấy câu chuyện phức tạp hơn ta vẫn nghĩ.
Nhờ quân Xiêm giúp
Khi thế lực Tây Sơn dâng lên mạnh mẽ, Nguyễn Ánh bị truy đuổi đến đường cùng. Lúc này, một số tướng của ông từng sang Xiêm cầu viện, như Chu Văn Tiếp. Vua Xiêm cũng có mối liên kết về lợi ích với các tướng của Nguyễn Ánh, cộng thêm nể tình “láng giềng giao hảo”. Do đó, Xiêm điều quân sang giúp Nguyễn Ánh năm 1784. Dù vậy, nhiều sự cố xảy ra: tướng Xiêm kiêu ngạo, tàn bạo, cướp bóc của dân khiến dân oán hận. Nhận thấy để quân Xiêm ở lâu sẽ mất lòng dân, Nguyễn Ánh cân nhắc việc rút lui, thậm chí muốn bỏ Gia Định để tránh gây thêm tổn hại cho nhân dân.
Quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh tan quân Xiêm trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút (cuối năm 1784 – đầu năm 1785). Rút cuộc, quân Xiêm tháo chạy, còn Nguyễn Ánh lần thứ hai lại phải sang nương nhờ Xiêm chờ thời cơ. Trên đất Xiêm, ông kiên nhẫn chờ đợi, rèn quân, huấn luyện thủy binh, rồi cũng hai lần giúp Xiêm đánh quân Miến Điện, quân Chà Và để trả nghĩa. Sau đó, khi nhận thấy mượn quân Xiêm không phải kế lâu dài, ông lẳng lặng thu gom tướng sĩ trở lại Nam Hà, chiếm Gia Định và bắt đầu cuộc phục quốc của riêng mình.
Đáng lưu ý: Quân Xiêm hiện diện trên đất Nam Hà chỉ khoảng 6 tháng, trước khi bị Tây Sơn đuổi về nước. Trong khi đó, Tây Sơn lại liên minh chặt chẽ với nhiều nhóm hải tặc Trung Hoa (thường gọi là “Tàu Ô” hay “Hải Phỉ”), giao kèo hợp tác trên dưới hai mươi năm, đặc biệt là thời Nguyễn Huệ. Vậy có phải “cõng rắn cắn gà nhà” chỉ gán cho mỗi Gia Long, hay nên nhìn rộng rằng đây chỉ là những “nước cờ” dùng sức mạnh bên ngoài, bên nào cũng buộc phải tính đến khi so kè tương quan lực lượng?
Nhờ người Pháp giúp
Thực tế, Nguyễn Ánh không hề “thỉnh” cả một đạo quân chính quy Pháp sang xâm chiếm Đại Việt như một số giai thoại thêu dệt. Ông chỉ dựa vào một số người Pháp phiêu lưu, điển hình là Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) và vài cá nhân khác, để lo vũ khí, đạn dược, thuyền chiến, hoặc dùng họ làm “lá chắn tâm lý” trấn an dân Nam Hà.
Năm 1783, khi Thế Tử Nguyễn Phúc Cảnh chỉ mới ba tuổi, ông được đưa đi cùng Giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp với mục đích chính là kêu gọi sự trợ giúp quân sự từ hoàng gia Pháp. Thỏa thuận “Hiệp ước Versailles 1787” ký với đại diện Louis XVI nghe qua thì thật bất lợi cho Nam Hà, do phải nhượng Côn Đảo, nhượng đảo “Hoï-Nan” (chưa rõ là đảo nào gần Đà Nẵng) và ưu đãi kinh tế cho Pháp. Tuy nhiên, hiệp ước đó chưa kịp thực thi vì Louis XVI gặp bất ổn trong nước, dẫn đến cách mạng Pháp 1789. Rốt cuộc, Pháp không cử binh. Giám mục Bá Đa Lộc khi trở lại Gia Định vào năm 1789, gần như tay không.
Bên cạnh sự hỗ trợ về kỹ thuật đóng tàu, luyện pháo binh của một ít người Pháp phiêu lưu này, tuyệt nhiên không hề có “quân chính quy Pháp” tràn sang chiếm đóng Đại Việt. Vua Gia Long đã từ chối tiếp nhận lực lượng quân sự quá rầm rộ, phần vì không muốn nước ngoài can thiệp quá sâu, phần vì thấy thế lực của mình dần đủ mạnh để chinh phục Tây Sơn.
Từ đó, nhìn lại lời quy kết “cõng rắn cắn gà nhà” với Gia Long, ta có thể nhận ra:
- Ông nhờ Xiêm chỉ trong thế cùng, khi quân Tây Sơn đã áp đảo.
- Sau khi nhận ra tác hại, ông nhanh chóng chấm dứt.
- Nhờ người Pháp nhưng chủ động tránh việc “cho Tây” vào đóng quân quy mô lớn.
Tất cả đều phản ánh lựa chọn “vạn bất đắc dĩ”, xuất phát từ trách nhiệm nặng nề với cơ đồ dòng họ Nguyễn Phước suốt gần 200 năm trước đó đã mở mang Nam Bộ.
So sánh và nhận định
Khi phán xét Gia Long, cũng cần so sánh với vua Quang Trung. Chính Tây Sơn, cụ thể là Nguyễn Huệ, từng kết hợp với các nhóm hải tặc Trung Hoa, mệnh danh “Tề Ngôi”, để tăng cường sức mạnh trên biển, nhiều lần chiến đấu chống nhà Lê, chúa Trịnh và cả các lực lượng họ Nguyễn. Con số băng cướp Tàu được ghi lại rất lớn, chia thành nhiều hạm đội, đóng vai trò không nhỏ trong cuộc chiến với quân Nguyễn Ánh suốt hơn hai thập kỷ.
Tất nhiên, vua Quang Trung vẫn là một thiên tài quân sự, đặc biệt với chiến thắng Kỷ Dậu (1789) đánh tan quân Thanh. Điều ấy không thể phủ nhận. Nhưng muốn hiểu đầy đủ, ta không nên tuyệt đối hóa một bên (Tây Sơn) rồi dùng tiêu chuẩn khắt khe phiến diện để phê phán bên còn lại (Gia Long). Bản chất các cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực thời bấy giờ rất phức tạp, mỗi phe đều phải tìm đủ mọi “đồng minh” để giành ưu thế trên chiến trường.
Dưới góc độ lịch sử, ta phải đặt con người vào đúng thời đại họ sinh sống. Họ không thể biết trước những gì về sau sẽ diễn ra (chẳng hạn chuyện thực dân Pháp lấy cớ chiếm nước ta trong thế kỷ XIX). Chỉ có thể nói, từng quyết sách của mỗi vị vua vào hoàn cảnh ấy đều là “câu trả lời” cho bài toán sinh tử của vương quyền và đất nước.
Điều đáng trân trọng ở Gia Long là, sau khi chiến thắng, lên ngôi, ông vẫn trân quý dòng Lê, làm lễ rước hài cốt vua Lê Chiêu Thống về an táng ở quê nhà, công nhận công lao nhiều danh thần cũ thuộc các triều trước. Trong khi đó, vua Quang Trung nếu còn tại vị lâu dài, cũng có thể làm nhiều điều ích nước lợi dân – tuy sự thật là thời gian trị vì của ông quá ngắn.
Từ mọi diễn giải trên, ta thấy lời buộc tội “cõng rắn cắn gà nhà” với Gia Long hay “rước voi về giày mả tổ” với Lê Chiêu Thống cần được nhìn nhận lại. Không ai cố tình “bán nước cầu vinh”, mà đa phần vì bảo vệ triều đại, cơ đồ tổ tiên trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn.
Tóm lại
Chúng ta, những người đọc sử hôm nay, cần phân biệt rõ giữa hành động “cầu viện ngoại bang” mang tính bị động, bất đắc dĩ, với việc bán đứng giang sơn một cách chủ ý. Lê Chiêu Thống lẫn Gia Long đều không phải “kẻ bán nước” như định kiến lâu nay. Họ ở vào thế hiểm, phải xoay xở để cứu vãn triều đại và cơ nghiệp tổ tiên. Đó cũng là lời nhắc nhở chúng ta: để hiểu đúng một giai đoạn lịch sử, hãy đặt mình vào bối cảnh và tâm thế của người xưa, tránh vội vàng quy chụp từ những truyền tụng thiếu cảm thông hay quá đề cao một phía.