Thomas Jefferson là nhân vật thứ ba trong các đời tổng thống Mỹ, nhận nhiệm sở năm 1801, sau George Washington và John Adams. Ông cũng là mộ trong những vị tổng thống nổi tiếng nhất trong lịch sử Mỹ. Hiện ở Washington D.C còn có một đài tưởng niệm dành cho ông.
Jefferson có những đóng góp nổi bật về việc kiến thiết đất nước, tách giáo hội ra khỏi nhà nước, và giáo dục cộng đồng.
Qua thời gian, tên của ông cũng gắn liền với chế độ nô lệ tiếp diễn cho tới thời kỳ Nội Chiến, và việc để mất đất đai vào tay những người Da Đỏ bản địa.
Người cha lập quốc
Thomas Jefferson sinh năm 1743, lớn lên trên những dải núi đồi thoai thoải vùng Virginia. Gia đình giàu có giúp ông được ăn học đến nơi đến chốn.
Jefferson cũng giỏi cưỡi ngựa, khiêu vũ, và thích tìm tòi khám phá thiên nhiên.
Những năm 1770, Jefferson ủng hộ cuộc Cách Mạng Mỹ chống lại Anh. Có lẽ ông nổi tiếng nhất với vai trò là người soạn thảo chính của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập.
Jefferson lần lượt nắm giữ nhiều chức vụ của nước Mỹ thời non trẻ với một chính quyền vừa thành hình trong trứng nước. Ông từng là thị trưởng Virginia, đại sứ ở Pháp, thư ký chính phủ cho tổng thống George Washington, và phó tổng thống cho John Adams.
Điền trang Virginia và là người sở hữu nô lệ
Jefferson đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng nước Mỹ. Nhưng ông thường viết thư cho bè bạn kể về ước muốn lớn nhất là nghỉ hưu, trở về điền trang tại Virginia.
Những năm 1760, ông thiết kế một ngôi nhà mà ông đặt tên là Monticello – tức là ngọn núi nhỏ trong tiếng Italia.
Có khoảng 130 nô lệ sống thường trực trên đất Monticello. Họ làm việc trong nhà và ngoài đồng cho gia đình ông, thường tham gia vào các dự án đặc biệt, như làm đồ đạc và móng chân móng tay.
Jefferson sở hữu 600 nô lệ trong suốt cuộc đời. Nhưng ông nói rằng ông không thích chế độ nô lệ. Ông tin rằng Chúa sẽ phán xét những người chủ nô một cách nghiêm khắc.
Và tất nhiên, chính Jefferson viết trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập rằng “mọi người sinh ra có quyền bình đẳng” và có quyền “sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc.”
Nhưng Jefferson không dùng quyền lực chính trị để chấm dứt chế độ nô lệ. Ông hy vọng các thế hệ tương lai sẽ làm chuyện ấy, một cách ôn hòa và từ từ.
Lời nói và hành động của Thomas Jefferson về chế độ nô lệ nhiều khi mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn này đặc biệt rõ ràng vì Jefferson muốn có một mối quan hệ lâu dài với một người nô lệ tại Monticello, điền trang của ông.
Tên nàng là Sally Hemings. Chứng cứ cho thấy nàng đã sinh cho Jefferson tới 6 người con, có khai sinh đàng hoàng.
Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ
Năm 1801, Thomas Jefferson rời Monticello đến Washington D.C, nơi ông sẽ bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống của mình sau khi đánh bại tổng thống John Adams trong cuộc bầu cử trước đó. Ông là tổng thống đầu tiên nhậm chức tại Washington D.C.
Chính phủ của Jefferson là một mớ hỗn độn kế thừa từ hai đời tổng thống trước. George Washington và John Adams, vốn ủng hộ một chính quyền trung ương nắm nhiều quyền lực. Còn Jefferson thì trái lại, ông muốn giới hạn quyền lực của chính quyền trung ương.
Trong vai trò tổng thống, Jefferson cũng có nhiều quyền lực để xử lý các vấn đề ngoại giao. Ông tăng cường lực lượng hải quân ở vùng Địa Trung Hải để đề phòng các mối đe dọa đối với hạm đội Mỹ.
Ông cũng cho phép quan chức chính quyền mua những lô đất lớn của Pháp, và thành công lớn nhất của ông là thương vụ Louisiana. Vì vụ mua bán này mà quốc khố thâm hụt, và Hiến pháp phải tăng thêm quyền lực cho tổng thống.
Nhìn chung thì các sử gia đánh giá nhiệm kỳ đầu tiên của Jefferson là một giai đoạn thành công. Cử tri cũng vậy, vì ông dễ dàng chiến thắng nhiệm kỳ thứ hai.
Nhưng bốn năm tiếp theo lại là khoảng thời gian khó khăn. Danh tiếng của Jefferson bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi ông dừng mọi hình thức thông thương với châu Âu. Ông muốn giới hạn sự liên quan của Mỹ vào cuộc chiến giữa Anh và Pháp đang diễn ra rất quyết liệt.
Nhưng những người chỉ trích ông thì cho rằng ông đã làm sụp đổ nền kinh tế Mỹ.
Di sản của tổng thống Thomas Jefferson
Họ cũng tấn công những ý tưởng chính trị và nhân phẩm cá nhân của ông. Georege Washington lo ngại rằng Jefferson sẽ làm suy yếu chính quyền trung ương mà ông đã vất vả kiến tạo.
Và dù một vài người bạn qua thư tư trao đổi cho rằng Jefferson quá lý tưởng.
Các đối thủ cũng buộc tội ông không phải một Ki-tô hữu, dù ông tuyên xưng điều ấy. Tuy nhiên, ông cho rằng chính phủ không nên ra những pháp luật về tôn giáo.
Ông viết rằng chính phủ chỉ nên quan tâm tới hành động của người ta, xem có xâm phạm lẫn nhau hay không. Và nếu người hàng xóm tuyên xưng một tá các vị thần, hay không có thần nào, thì ông cũng không bận lòng vì điều đó. “It neither picks my pocket nore breaks my leg” (Điều ấy chẳng hại gì tới túi tiền hay thân thể tôi). Ông cho hay.
Tư duy tách biệt chính quyền và giáo quyền của Jefferson đến nay vẫn còn có giá trị nổi bật – và nhìn chung đó là thực tế hiện nay ở Mỹ.
Tuy nhiên, Jefferson cũng dính líu tới những vấn đề với người da đỏ bản địa (Native Americans). Ông đã buộc họ phải ký kết những hiệp ước bán đi đất đai của tổ tiên họ. Ông muốn người da đỏ bản địa phải trở thành những người Âu-Mỹ. Chính sách của ông khiến họ phải phụ thuộc vào chính quyền liên bang.
Jefferson cũng không có hành động nào quyết liệt hay nổi bật để chấm dứt chế độ nô lệ.
Cuối đời, Jefferson tự hào viết về những thành tựu của ông. Ông nói rằng mình muốn được nhớ đến vì ba điều: là người biên soạn Tuyên Ngôn Độc Lập, là người đã ủng hộ tự do tôn giáo, và là người đã sáng lập Đại học Virginia.
Và quả tình thì ông gần như đã được mãn nguyện.
Jefferson cũng ủng hộ miễn phí giáo dục công, nhất là cho những người không thể trả học phí.
Nhưng thời gian ở tại Monticello ông trải qua nhiều nỗi buồn. Martha, vợ ông, mất năm 1782 vì sản nạn (chết trong khi sinh). Và hầu hết con cái đều chết trước ông.
Ngoài ra, chi phí tu bổ và duy trì Monticello cũng khá tốn kém, ông còn chi tiền mua rượu và các món sơn hào hải vị. Tất cả cuối cùng làm ông khánh kiệt.
Sau cùng, con gái phải bán đi điền trang Monticello và các nô lệ ở đó để trang trải nợ nần cho ông.
Jefferson chết trên giường bệnh ở tuổi 8. Chi tiết thú vị về ngày mất của ông mà nhiều người Mỹ vẫn còn truyền tụng đó là ông mất vào ngày khai sinh nước Mỹ, đúng 50 năm sau khi ký Tuyên Ngôn Độc Lập.