Nguyễn Hữu Chỉnh thường bị đánh giá là một gian thần, phản phúc, giảo quyệt. Tuy nhiên, nếu đi sâu vào tìm hiểu hành vi, ngôn ngữ và những tác phẩm thơ văn còn sót lại, chúng ta sẽ nhận thấy nhiều khía cạnh khác của ông – một con người có tài, giàu nghĩa khí, và lắm nỗi oan khuất. Bài viết này mong muốn cung cấp cái nhìn đa chiều hơn về một nhân vật lịch sử tài hoa nhưng đoản mệnh.
Thân thế
Nguyễn Hữu Chỉnh quê ở làng Đông Hải (1), huyện Chân Phúc (Nghi Lộc), trấn Nghệ An, sinh năm 1741/1742. Cha ông là lái buôn có gia sản lớn, lại thường qua lại với Quận Việp (Hoàng Ngũ Phúc), nhờ vậy Chỉnh sớm được tiếp xúc với môi trường quyền quý.
Năm 16 tuổi, ông đỗ Hương cống (tức Cử nhân), 18 tuổi thi Tạo sĩ (tức Võ Tiến sĩ) đỗ đến Tam trường (2), nổi danh là người tài mạo song toàn, ứng đối linh hoạt. Có giai thoại kể, mới 9 tuổi, Chỉnh đã ứng khẩu bài thơ “Vịnh cái pháo” với vẻ “khẩu khí” đặc biệt, sau này thường được nhắc đến như một cách châm biếm ngầm: công danh sự nghiệp của ông “nổ” lớn nhưng kết cục nhanh chóng tan tành.
Trẻ tuổi, tài hoa, Chỉnh được Quận Việp thu dụng, ban đầu chỉ giữ chức vụ nhỏ như Tư thừa trong cuộc Nam chinh đánh chúa Nguyễn (năm Giáp Ngọ 1774). Về sau, nhờ sự lưu loát trong đối đáp và khả năng thao lược, Chỉnh được chúa Trịnh giao mang cờ, ấn, gươm vào trại phong cho Nguyễn Nhạc làm Tuyên úy Đại sứ, trấn thủ Quảng Nam, tước quận công. Tuy nhiên, biến động triều chính ở Bắc Hà liên tiếp diễn ra sau khi Trịnh Sâm mất: kiêu binh lộng hành, giết Hoàng Đình Bảo (Quận Huy) – người từng nâng đỡ Chỉnh – khiến ông phải trốn chạy vào Nam theo Tây Sơn.
Đặc biệt, trước khi rời Nghệ An, Chỉnh cho tập hợp toàn bộ binh lính dưới quyền, giải tán họ với lời giải thích minh bạch và để lại cho mỗi người một quan tiền đen. Đây là hành vi khá hiếm có, cho thấy ông quan tâm đến thuộc hạ, dù đang lâm vào bước đường cùng.
Vào được đất Tây Sơn, Chỉnh đem cả gia đình làm con tin, hết lòng giúp Nguyễn Nhạc lo quân lương, sắm sửa khí giới, tuyển chọn tướng sĩ, đánh dẹp khắp nơi (Xiêm La, Bồ Man…). Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ nể tài Chỉnh, đặc biệt lúc cùng cất quân đánh lấy Phú Xuân (mùa xuân Bính Ngọ 1786). Nguyễn Huệ từng công khai thừa nhận ra tới Thăng Long được là nhờ công của Chỉnh. Tuy nhiên, từ khi diệt xong họ Trịnh, Tây Sơn dần nghi ngờ Chỉnh, hai lần tìm cách bỏ rơi ông. Chỉnh cũng vì thế dao động, toan tính chỗ dựa khác, dẫn đến kết cục cuối cùng là bị tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm giết hại dã man năm 1788.
Tội trạng
Ngay từ đương thời, Chỉnh đã bị nhiều nhân vật quyền thế quy cho tội “gian thần, phản thần, bội bạc”. Chúa Trịnh xem ông là kẻ “bất trung”, Triều Lê cũng nghi kỵ, còn Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc thì lo ông “hai lòng”. Chính vì phải luân phiên nương dựa các thế lực chính trị để sinh tồn, Chỉnh bị gán mác “chủ nghĩa cơ hội”: khi theo chúa Trịnh, khi sang Tây Sơn, về sau lại quay ra phò vua Lê.
Thêm vào đó, việc “cõng rắn cắn gà nhà” bị dân chúng Bắc Hà trách móc, một phần bởi họ chứng kiến quân Tây Sơn kéo ra diệt họ Trịnh. Hơn nữa, khi Chỉnh lên nắm chính quyền tại Thăng Long, ông làm một số việc bị chê trách như mở hai khoa thi liên tiếp (dễ gây dị nghị “tư túi”), thu chuông đồng chùa để đúc tiền (bị quy cho tội phá hoại Phật giáo), rồi sửa sang dinh thự xa xỉ trong lúc xã hội đói kém.
Mặc dù vậy, nhiều sự thật lại cho thấy “tội trạng” của Chỉnh khá phức tạp, không chỉ tóm gọn trong hai chữ “phản thần”:
- Với Quận Huy (Hoàng Đình Bảo): Chỉnh từng bị tra khảo gần chết vẫn nhất quyết không khai để cứu Quận Huy khỏi liên lụy, đủ thấy Chỉnh có lòng trung nghĩa với người nâng đỡ mình.
- Với Tây Sơn: Chỉnh chẳng phải vô duyên vô cớ quay lưng. Ông hai lần bị bỏ rơi khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc đột ngột rút quân, để Chỉnh ở lại đối diện nguy hiểm. Chỉnh cố đuổi theo xin theo về Phú Xuân nhưng bị từ chối, buộc ông ở lại Nghệ An, rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan.
- Với vua Lê: Lê Chiêu Thống thực ra nhiều lần nghi kỵ, suýt đầu độc Chỉnh. Triều đình Lê cũng lủng củng, các quan đa phần hoặc trốn chạy, hoặc tranh giành quyền lợi riêng, khiến Chỉnh một mình loay hoay chèo chống.
Chỉnh giống như một con người đầy tài năng nhưng “lắm kẻ thù, ít người hiểu”. Ông vừa bị đẩy ra khỏi chỗ này, vừa bấu víu chỗ khác hòng duy trì mạng sống. Bản thân Chỉnh lại không giỏi “che giấu” mưu kế, tính tình thẳng thắn bộc trực. Kết cục, ông vướng họa sát thân, bị chém phanh thây bêu ở cửa Đông Thăng Long ngày 12/1/1788 (theo tài liệu giáo sĩ là 15/1/1788), để lại nỗi oan “gian hùng”, “tặc thần” suốt hàng trăm năm sau.
Bài Liên Quan
Góc nhìn con người Nguyễn Hữu Chỉnh
Nghị luận
Qua những tranh luận của Chỉnh về các sự kiện đương thời, ta thấy ông coi trọng “luân thường đạo lý”. Thí dụ, khi nghe tin Trịnh Tông giết kẻ từng tố cáo mình (vâng lệnh Trịnh Sâm), Chỉnh chỉ trích đó là đại bất hiếu, vì đã gián tiếp “tố tội” cha mình với thiên hạ. Hoặc khi hay tin Đặng Thị Huệ – được xem là “Tuyên Phi” – tự vẫn, ông khen hành động đó “tiết liệt”, khác hẳn lời đồn trước kia chỉ nghiêng về nhan sắc.
Khi triều Lê bất lực, để kiêu binh hoành hành, Chỉnh chủ động xốc lại kỷ cương. Sau khi nắm quyền, ông mở khoa thi chọn người tài, sắp đặt lại quan chế, thành lập các vệ doanh, cố gắng đưa Bắc Hà trở về dáng dấp ổn định. Dù bị nghi ngờ là “tự tiện”, “không thèm tâu vua”, nhưng thực tế vua Lê khá nhu nhược, thường chỉ lo “giết người trả thù vặt”, chứ không tỏ rõ thực tài trị quốc.
Đáng nói, với những kẻ đối nghịch như Nguyễn Đình Giản hay Phan Huy Ích, Chỉnh không hề hiếu sát. Chẳng hạn khi bắt được Phan Huy Ích (từng chế trống lớn để “nhốt” Chỉnh), ông vẫn tha, cười rằng “Hủ nho quen múa mép, giết thêm bẩn gươm!”. Những chi tiết này phản ánh con người Chỉnh vừa quyết đoán vừa rộng lượng, sẵn sàng thu phục nhân tâm.
Hành sự
Nhiều người đương thời hoặc đời sau chỉ trích Chỉnh là “bỏ chủ cũ theo Tây Sơn” rồi “lại trở mặt với Tây Sơn”. Thế nhưng, nếu nhìn tổng thể, ta thấy:
- Khi còn ở Nghệ An, Chỉnh hết lòng vì Quận Huy, chịu tra khảo thay.
- Khi Quận Huy chết, triều Trịnh lâm cảnh rối loạn, Chỉnh phải chạy vào Nam. Ở đất Tây Sơn, ông ra sức rèn quân, sắm sửa vũ khí, giúp Nguyễn Huệ chiếm Phú Xuân dễ dàng.
- Tây Sơn bỏ ông hai lần, khiến Chỉnh ở thế tiến thoái lưỡng nan. Ông không thể ở lại một nơi bị nghi kỵ, đành phải tìm sinh lộ khác.
- Khi được vua Lê mời ra cứu giá, Chỉnh lên Bắc, dẹp tan tàn dư họ Trịnh, tổ chức lại chính sự. Việc ông “lạm quyền” một phần do triều đình để mặc, việc nước chỉ trông cậy Chỉnh.
Với binh sĩ, Chỉnh luôn ghi dấu ấn vì sự hào phóng và lo nghĩ cho kẻ dưới. Hành động giải tán quân trước lúc lên thuyền đi Nam năm 1782, cấp cho mỗi người một quan tiền, hay lệnh cấm quân đội nhũng nhiễu dân trong lúc đi dẹp Dương Trọng Tế đều cho thấy một vị tướng có lòng nhân.
Văn thơ
Nguyễn Hữu Chỉnh không chỉ có tài thao lược, mà còn nổi tiếng văn chương, đặc biệt giỏi thơ Nôm. Sử sách để lại ba tác phẩm lớn thường được nhắc đến:
- “Vịnh cái pháo”: Bài thơ được cho là Chỉnh ứng khẩu năm 9 tuổi. Những câu thơ như “Xác không vốn những cậy tay người / Bao nả công trình, tạch cái thôi!” bị kẻ ghét ví von với sự nghiệp phù phiếm của ông. Tuy nhiên, bài này chỉ là sáng tác tuổi nhỏ, không thể đại diện toàn bộ tài hoa Chỉnh.
- “Quách Lệnh Công Phú”: Ca ngợi Quách Tử Nghi – vị tướng cự phách đời Đường. Chỉnh tôn sùng mẫu người lập công danh bằng tài năng chân chính, chứ không “cậy tay người”. Tác phẩm này từng được văn nhân đương thời truyền tụng, góp phần đưa tên tuổi Chỉnh lên hàng “tài tử phong lưu” chốn kinh kỳ.
- “Trương Lưu Hầu Phú”: Khắc họa Trương Lương (Trương Tử Phòng) – người phục vụ nhà Hán nhưng thực chất mưu báo thù cho nước Hàn. Đây được xem là tác phẩm Chỉnh gửi gắm tâm sự: Trương Lương bị nghi ngờ, phê phán hai mang; Chỉnh cũng rơi vào cảnh tương tự. Những câu như “Lòng này ai biết Hán hay Hàn…” gợi cho người đọc cảm giác Chỉnh ví mình như Trương Lương, mang nỗi niềm uẩn ức, bất đắc dĩ phải “hai mặt” để sinh tồn trong thời loạn.
Ngoài ra, ông còn để lại “Ngôn Ẩn Thi Tập” gồm những bài thơ Nôm đầy trăn trở, tỏ rõ tâm trạng buồn bã, cô đơn, uất nghẹn khi bị gièm pha khắp nơi. Những câu như:
“Tay bé khôn bưng vừa miệng thế,
Giãi lòng ngay thảo, cậy thiên tri.”
phản ánh việc ông tự thấy sức mình không đủ xoay chuyển cục diện, đành than thở, phó mặc “ông Trời” phán xét.
Nguyễn Hữu Chỉnh không chỉ là “gian thần phản phúc” như nhiều người gán cho. Ông là một nhân tài nổi bật, cả văn lẫn võ, bị hoàn cảnh nghiệt ngã và nghi kỵ tứ phía đẩy đến kết cục bi thương. Nhìn lại lịch sử, ta thấy rõ một con người luôn khát khao được thừa nhận, luôn muốn báo đáp ân tri ngộ, nhưng số phận long đong. Cuộc đời “nổ tạch một tiếng rồi tan như pháo” ấy có lẽ vẫn đáng được cảm thông hơn là chỉ nhận những lời phán xét phiến diện.