Sau khi 7 tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ tuyên bố ly khai tách khỏi Liên bang, Nam Carolina đã yêu cầu quân đội miền Bắc rút khỏi các căn cứ của mình tại cảng Charleston, trong đó có đồn Sumter, có vị trí trọng yếu vì kiểm soát lối ra vào cảng này. Ngày 26 tháng 12 năm 1860, thiếu tá miền Bắc Robert Anderson đã bí mật dời bộ chỉ huy đồn Sumter để tử thủ. Bài viết này tường thuật diễn biến cuộc pháo kích của quân đội Nam Carolina nhằm chiếm đồn Sumter, buộc quân Miền Bắc phải rút lui.
Đây là trận đánh được coi là mở màn cho Nội Chiến Mỹ.
Vào một ngày lạnh lẽo và nặng mây tháng Ba, 1861, Abraham Lincoln trở thành tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn nhậm chức ông đã tuyên bố chính sách mình theo đuổi đổi với các bang miền nam đã ly khai khỏi khối Liên Minh. Pháo đài Sumter và nội chiến Mỹ sẽ là hai vấn đề trọng đại nhất mà vị tổng thống này sắp phải đối mặt.
Lincoln nói rằng không bang nào có quyền ly khai. Ông nói rằng khối Liên Minh không thể phá vỡ, rằng ông sẽ thực thi luật liên bang ở tất cả mọi bang. Và ông hứa sẽ không nhượng bộ bất kỳ tài sản đất nước nào ở những bang ly khai. Lincoln nói rằng nếu vũ lực là cần thiết để bảo vệ khối Liên Minh, thì ông sẽ dùng vũ lực.
Chính sách của ông nhanh chóng được kiểm tra.


Pháo đài Sumter, nơi nam bắc phân tranh
Vào ngày thứ hai trên cương vị tổng thống, Lincoln nhận tin xấu từ Pháo đài Sumter tại Charleston, Nam Carolina. Thị trưởng Robert Anderson, chỉ huy một lực lượng nhỏ tại Sumter, viết rằng lương thực đang cạn dần. Anderson cho biết giỏi lắm thì chỉ đủ lương thực trong 40 ngày. Trừ khi ông và quân của ông nhận được tiếp tế, nếu không thì họ phải bỏ pháo đài.
Lincoln muốn giữ Pháo đài Sumter. Đó là một trong số ít những phòng tuyến mặt nam còn trong tay quân liên bang. Pháo đài đang bị pháo binh miền nam bao vây, thuyền chiến tuần tiễu canh gác ngày đêm.

Muốn tiếp tế cho Anderson cũng binh lính thì bắt buộc phải chạm trán với quân miền nam tại Sumter. Và một cuộc chạm chán như thế chắc chắn sẽ dẫn đến nội chiến. Ngoài ra, giao tranh quân sự cũng sẽ khiến các bang sở hữu nô lệ trong khối Liên Minh ly khai và gia nhập với khối Liên Bang miền nam.
Tướng WinField Scott, tổng tư lệnh, cảnh báo Lincoln rằng đã quá muộn để tiếp tế cho Pháo đài Sumter. Ông nói phòng tuyến của quân miền nam bao quanh pháo đài quá mạnh, muốn chọc thủng cần phải huy động một lực lượng lớn. Có thể phải mất vài tháng để chuẩn bị tàu chiến và huy động binh lính cho một trận đánh như vậy. Chỉ huy Anderson và quân của ông tại Sumter thì không thể chờ lâu tới vậy.
Tuy nhiên, có một kế hoạch khác do tướng Gustavus Fox của Hải quân đề xuất. Tướng Fox nói rằng binh linh và quân nhu có thể gửi đến Charleston bằng tàu. Tất cả sẽ tập kết ngoài lối vào cảng, chờ trời tối sẽ chất xuống thuyền nhỏ, người trong pháo đài sẽ dùng dây kéo những chiếc thuyền này vào. Một vài tàu chiến sẽ đi hộ tống để đề phòng thuyền chiến miền nam quấy rối.
Lincoln ngả theo cách này. Ông hỏi ý kiến nội các, rằng liệu đó có phải cách hay để gửi tiếp tế cho Sumter không.
Giám đốc ngành bưu điện (Montgomery) Blair là thành viên duy nhất của nội các nói “được”. Thư ký kho bạc Chase chỉ ủng hộ kế hoạch nếu Lincoln chắc chắn sẽ không xảy ra chiến tranh.

Tình hình tại pháo đài Sumter ngày càng cấp bách
Sự phản đối của nội các khiến Lincoln lưỡng lự đối với kế hoạch của Fox. Sau đó ông phái hai người riêng lẻ tới gặp Charleston để báo cho ông biết tình hình ở đó. Một là tướng Fox. Người kia là bạn thân của ông, Ward Lamon.
Tại Charleston, Fox gặp Thị trưởng Francis Picken. Ông giải thích rằng ông muốn nói chuyện với Chỉ huy Anderson, không phải để truyền lệnh, mà là để nắm tình hình. Thị trưởng Picken đồng ý. Một chiếc thuyền của phe miền nam đưa Fox tới Sumter. Anderson cho Fox biết lương thực sẽ cạn vào ngày 15/04.
Ward Lamon tới gặp Charleston sau khi Fox trở về Washington. Trước tiên ông cũng đến gặp thị trưởng Picken, rồi mới tới gặp Anderson. Thị trưởng bang Nam Carolina yêu cầu Lamon gửi tới Lincoln thông điệp như sau:
Không gì có thể ngăn cản được chiến tranh trừ khi tổng thống quyết định công nhận sự ly khai của miền nam. Nếu định đưa người tới Fort Sumter thì chiến tranh sẽ nổ ra trên mọi ngọn đồi và thung lũng miền nam.
Lamon cho Lincoln biết rằng dù chỉ một chiếc thuyền nhỏ chở lương thực tới Sumter cũng sẽ là hành động tuyên chiến.
Cuối tháng Ba, Lincoln triệu tập một cuộc họp nội các khác và lại hỏi nên làm gì đối với Pháo đài Sumter. Có nên cố gắng tìm cách tiếp tế cho Chỉ huy Anderson không. Lần này, ba thành viên nội các đều biểu quyết “có”, và ba người nói “không”.
Khi cuộc họp kết thúc, Lincoln viết một đạo lệnh cho Thư ký bộ Chiến tranh, sai chuẩn bị chuyển người và hàng tiếp tế đến Pháo đài Sumter theo đường biển. Ông nói tất cả phải sẵn sàng vào ngày 6/4 – tức là chỉ có một tuần để chuẩn bị.
Đến ngày 4/4, Lincoln triệu tập tướng Fox đến Nhà Trắng và cho ông biết chính quyền sẵn sàng tiếp tế cho Pháo đài Sumter, và Fox sẽ chủ trì chuyện này.

Những diễn biến ở phe miền nam
Cuối buổi gặp, Toombs khuyến cáo Davis đừng tấn công pháo đài.
Thưa Tổng thống, ông nói, ở thời điểm này như thế là tự sát – là ám sát – và sẽ làm tan biến tình bạn của chúng ta với miền bắc. Ngài sẽ chọc vào tổ ong vò vẽ, nó sẽ túa ra từ mọi ngọn núi và mọi đại dương. Hàng triệu con sẽ tụ lại đốt chết chúng ta. Không cần phải như thế. Như thế là hỏng, là chết.
Ngày 10/4, Jefferson Davis gửi quyết định đến tư lệnh quân miền nam tại Charleston, Tướng Pierre Beauregard, yêu cầu Pháo đài Sumter đầu hàng. Nếu chỉ huy Anderson từ chối, thì tiêu diệt pháo đài.
Yêu cầu đầu hàng được một nhóm sĩ quan quân miền nam chuyển đến Sumter ngày hôm sau. Anderson và binh lính phải rời khỏi pháo đài. Nhưng khi rời đi họ được phép mang theo vũ khí và tài sản. Và sẽ có phương tiện đưa họ đến bất kỳ cảng nào trên đất Mỹ mà họ muốn.

Chỉ huy Anderson từ chối yêu cầu. Khi tiễn các sĩ quan miền nam ra thuyền, ông hỏi liệu tướng Beauregard có khai hỏa đánh Sumter ngay không. Không, họ đáp, khi nào đánh họ sẽ bảo trước. Anderson nói: “Dù các ông không bắn tung chúng tôi thành từng mảnh, thì con đói cũng sẽ buộc chúng tôi phải ra đi trong vài ngày tới.”
Tướng Beauregard báo cho chính phủ miền nam tại Montgomery rằng Anderson từ chối đầu hàng, và cũng cho biết rằng thực phẩm tại Sumter chỉ còn đủ ăn trong vài ngày.
Mệnh lệnh mới được ban ra cho Beauregard. Jefferson Davis nói không cần phải tấn công pháo đài khi mà cơn đói sẽ buộc họ phải rời đi. Nhưng Anderson cần cho biết chính xác ngày nào họ sẽ rời đi, và phải hứa sẽ không nổ súng tấn công quân miền nam. Nếu Anderson đồng ý thì súng của quân miền nam cũng sẽ không nổ.
Đề nghị này được chuyển đến Sumer vài phút trước nửa đêm, ngày 11/4.

Trước giờ khai hỏa
Anderson bàn bạc với bộ hạ rồi viết thư phúc đáp. Ông cho biết sẽ rời pháo đài vào ngày 15/4 nếu quân miền nam không có bất kỳ hành động thù địch nào đối với Pháo đài, hay chống lại quốc kỳ Mỹ. Tuy nhiên, ông sẽ không rời đi nếu nhận được lệnh mới hoặc tiếp tế.
Phúc đáp như vậy không làm hài lòng các sĩ quan miền nam mang tin của Beauregard đến. Họ trao cho Anderson một lưu ý nhỏ ngắn gọn: “Chúng tôi hân hạnh báo cho ngài biết rằng tướng Beauregard sẽ khai hóa đánh Fort Sumter trong một giờ nữa – lúc 4 giờ kém 15 sáng ngày 12.
Chỉ huy bắt tay các sĩ quan của Beauregard, và họ rời khỏi pháo đài. Anderson và bộ hạ đánh thức binh lính, sẵn sàng nghênh chiến.
Tại Pháo đài Johnson, bên kia bến cảng, các tay súng của quân miền nam đã sẵn sàng. Họ sắp sửa bắn phá Sumter. Và khi súng nổ, các lực lượng bao vây pháo đài sẽ lập tức khai hỏa tham chiến.
Cuộc chiến tại Pháo đài Sumter sẽ diễn ra thế nào? Mời các bạn đọc bài viết tiếp theo sẽ được sớm cập nhật.

Tiếng súng đầu tiên của Nội Chiến Mỹ
Ngay trước bình minh ngày 12/4/1861, tiếng súng đầu tiên của cuộc Nội Chiến Mỹ khai hỏa. Súng cối rền vang, phóng một quả đạn pháo vào bến cảng Charleston, Nam Carolina, đánh phá pháo đài Fort Sumter, pháo đài của Mỹ nằm trên một hòn đảo trong cảng.
Vụ nổ chính là tín hiệu khai hỏa cho tất cả các tay súng miền nam đang bao vây pháo đài. Đạn pháo dồn dập công phá pháo đài trên hòn đảo chơ vơ.
Tiếng bom đạn đánh thức người dân Charleston. Họ chạy bổ ra bến cảng, cất tiếng tung hô khi thấy đạn pháo rực sáng trong bầu trời đêm.
Các nhà lãnh đạo liên bang hạ lệnh tấn công sau khi tổng thống Abraham Lincoln từ chối rút lực lượng lính Mỹ tại Sumter. Nhu yếu phẩm dự trữ tại pháo đài đã gần cạn. Người miền nam đợi cho cái đói sẽ buộc những người lính phải rời đi. Nhưng Lincoln tuyên bố ông sẽ gửi tới Sumter một con tàu tiếp tế.
Tổng thống miền nam Jefferson Davis hạ lệnh cho chủ soái của ông tại Charleston, tướng Pierre Beauregard phải phá hủy pháo đài trước khi tàu tiếp tế tới.
Cuộc tấn công phát xuất từ Pháo đài Johnson nằm bên kia bến cảng, đối diện với Sumter. Roger Pryor, Nghị sĩ bang Virginia, được mời đến pháo đài Johnson vào thời điểm khai hảo. Chỉ huy pháo đài hỏi Pryor có muốn được vinh dự bắn phát đạn đầu tiên của cuộc chiến không. “Không” Pryor trả lời, giọng gay gắt. “Không lẽ tôi lại là người bắn phát đạn đầu tiên của chiến tranh.”
Nhưng người khác đã làm, và cuộc chiến vẫn diễn ra.
Giao tranh
Tại pháo đài Sumter, chỉ huy Robert Anderson và quân lính đợi 3 tiếng đồng hồ mới bắt đầu bắn trả.
Anderson không thể dùng những khẩu đại bác mạnh nhất, vì chúng nằm chơ vơ trên nóc pháo đài, nơi không có gì bảo vệ cho các tay súng. Nếu cố đưa người lên đó để bắn trả thì chắc chắn sẽ lực lượng vốn đã mỏng của ông sẽ thiệt hại nhân mạng không ít.
Vậy nên Anderson lệnh cho quân lính sử dụng những khẩu đại bác nhỏ hơn nhưng nằm ở những vị trí phòng thủ tốt hơn. Tuy nhiên, chúng không tạo ra thương vong đáng kể cho phe địch.
Cuộc pháo kích kéo dài cả ngày. Khói bốc cao trên bầu trời Sumter.
Tàu Mỹ neo đậu cách cảng Charleston vài dặm gần đó có thể nhìn thấy làn khói. Họ chở theo thực phẩm tiếp tế cho Sumter, nhưng không thể tiếp cận pháo đài để giúp chỉ huy Anderson. Tàu của quân miền nam đã chặn lối vào cảng, và sẵn sàng bắn hạ bất kỳ tàu thuyền nào tìm cách tiếp cận.
Chỉ huy lực lượng hải quân, tướng Gustavus Fox, hy vọng có thể chuyển quân bằng thuyền nhỏ, nhưng không thể được vì biển động. Fox chỉ còn biết giương mắt nhìn cuộc chiến, và trông chờ cho biển lặng.
Đạn pháo của quân miền nam không ngừng đánh phá Sumter suốt đêm và suốt buổi sáng ngày thứ hai. Lửa bốc cao từ trên pháo đài. Khói tỏa dày đặc các gian phòng nơi những người lính đang cố gắng chống trả bên những khẩu pháo.
Pháo đài Sumter đầu hàng
Đến trưa, có ba người phía đối phương đến pháo đài trên một con thuyền nhỏ. Một trong số họ là Louis Wigfall, nguyên nghị sĩ bang Texas, giờ là một quan chức trong phe miền nam. Ông yêu cầu được gặp chỉ huy Anderson.
“Tướng Beauregard cử tôi tới đây,” ông bắt đầu. “Đã đến lúc ngừng bắn, thưa chỉ huy. Khói lửa đang bủa vây quanh các ông. Các ông đã chiến đấu dũng cảm để bảo vệ ngọn cờ. Giờ ông chịu rút đi chứ?” Wigfall hỏi.
Chỉ huy Anderson đã sẵn sàng ngừng chiến. Người của ông đã làm hết sức có thể. Họ đã chiến đấu anh dùng trước một kẻ địch mạnh hơn rất nhiều. Anderson đồng ý đầu hàng, với điều kiện ông và người của ông có thể ra đi trong danh dự.
Wigfall đồng ý và yêu cầu Anderson hạ cờ, đồng thời ra lệnh ngừng bắn.
Lá cờ của Hợp Chủng Quốc hạ xuống, và cờ trắng đầu hàng giương lên. Trận Sumter vậy là kết thúc.
Trong vòng 33 giờ đồng hồ, đôi bên đã bắn vào nhau hơn bốn ngàn quả đạn pháo. Nhưng không xảy ra thương vong. Tuy nhiên một lính Mỹ đã bị giết ngày hôm sau, do một quả đạn pháo phát nổ khi người của Anderson chuẩn bị rời đi.
Tin tức về sự đầu hàng của Anderson nhanh chóng truyền tới Washington vào cuối ngày thứ Bảy, 13/04. Tổng thống Lincoln và nội các họp ngày hôm sau và viết một bản tuyên chiến mà tổng thống dự định sẽ đọc vào ngày thứ hai.
Trong bản tuyên bố, Lincoln nói các lực lượng mạnh đã chiến quyền kiểm soát bảy bang miền nam. Ông nói những lực này quá mạnh không thể ngăn chặn bằng cảnh sát và tòa án. Phải cần tới quân đội. Ông yêu cầu các bang triệu tập bảy vạn quân để chiếm lại các bến cảng và tài sản khác từ tay quân miền nam.


Vận động cho cuộc Nội Chiến Mỹ
Lincoln biết mình được đảng hậu thuẫn. Ông cũng muốn các đảng viên Dân Chủ ủng hộ ông hết mình. Vậy nên, tối ngày Chủ Nhật, một hạ nghị sĩ đến gặp nghị sĩ Stephen Douglas, nhân vật chủ chốt của đảng Dân Chủ.
Hạ nghị sĩ thúc giục Douglas đến Nhà Trắng nói với Lincoln rằng sẽ ủng hộ hết mình để đẩy lùi quân nổi loạn miền nam. Lúc đầu, Douglas từ chối, nói rằng Lincoln đã loại bỏ những người Dân Chủ – bạn của ông – ra khỏi chính quyền và giao việc cho những người Cộng Hòa. Douglas nói rằng ông không thích như vậy, và cho rằng Lincoln cũng không muốn nghe lời khuyên của ông.
Hạ nghị sĩ, George Ashmun, khuyên Douglas gác lại chuyện đảng phái. Đây là lúc mà tổng thống và đất nước cần tới sự giúp đỡ của ông. Cuối cùng Douglas đồng ý nói chuyện với Lincoln. Ông và Ashmun ngay lập tức đến Nhà Trắng.
Lincoln chào đón đối thủ chính trị. Ông giải thích các kế hoạch, và đọc cho Douglas nghe bản tuyên chiến mà ông dự định sẽ công bố sáng hôm sau.
Douglas đồng ý với toàn bộ nội dung bản tuyên chiến, trừ một điểm, bảy vạn rưỡi quân ông cho là không đủ. Nhớ lại những rắc rối của mình với những người cực đoan miền nam, ông khuyên Lincoln nên triệu tập 20 vạn mới đủ. Ông nói với tổng thống, “Ngài không biết những mục đích bất chính của bọn chúng bằng tôi đâu.”
Lincolnn và Douglas nói chuyện trong hai giờ đồng hồ. Sau đó, vị thượng nghị sĩ ra một thông cáo báo chí. Ông cho biết bản thân vẫn phản đối về các vấn đề chính trị. Nhưng ông hoàn toàn ủng hộ Lincoln trong việc bảo vệ đất nước.
Douglas chỉ sống thêm được một vài tháng sau đó. Suốt khoảng thời gian đó ông nổ lực vì phe Liên Minh. Ông đi khắp các bang miền bắc, diễn thuyết mọi nơi. Douglas thúc giục các đảng viên Dân Chủ phải hỗ trợ chính quyền Cộng Hòa. Ông bảo họ, “Trong cuộc chiến này không thể có chuyện đứng ở giữa – hoặc là những người yêu nước, hoặc là những kẻ phản quốc.”
Trên toàn miền bắc, hàng ngàn thanh niên trai tráng đáp lời kêu gọi của Lincoln. Trong vòng hai ngày, một lực lượng vũ trang đã rời Boston đến Washington. Các lực lượng khác nhanh chóng hình thành trên khắp các thành phố miền bắc, sẵn sàng huấn luyện tham gia cuộc chiến.
Nhưng từ những bang biên giới nằm giữa bắc và nam thì Lincoln lại nhận được câu trả lời khác.
Thị trưởng Virginia nói rằng ông sẽ không gửi quân tới giúp miền bắc đánh miền nam. Thị trưởng Nam Carolina nói yêu cầu đó vi hiến. Ông sẽ không tham gia. Bang Tennessee thì cho biết sẽ không gửi một binh một tốt nào tới giúp quân miền nam đánh quân Liên Minh miền bắc. Nhưng sẽ gửi 55 ngàn quân để giúp bảo vệ các quyền của miền nam.
Lincoln nhận được câu trả lời tương tự từ thị trưởng của các bang Kentucky, Arkansas, và Missouri. Trong nhiều ngày, dường như tất cả các bang này sắp sửa ly khia và về phe miền nam.
Lincoln lo lắng nhất là Virginia, bang mạnh nhất dọc theo sông Potomac. Ở đây đã tổ chức một hội nghi ly khai tại thành phố thủ phủ. Ngày 17/04, hội nghị bỏ phiếu ly khai Virginia khỏi khối Liên Minh.
Biểu quyết ly khai của Virginia đặt ra tình huống khó xửu với một sĩ quan quân đội Mỹ, đó là đại tá Robert E. Lee, công dân bang Virginia.
Chủ soát của quân đội, tướng Winfield Scott, đã triệu tập Lee về Washington. Scott tin rằng Lee là sĩ quan tốt xuất sắc nhất trong quân đội. Lincoln đồng ý như vậy. Ông yêu cầu Lee nhận trọng trách của tướng Scott, trở thành nguyên soái.
Lee được đề bạt vào đúng ngày Virginia tuyên bố ly khai. Trong ông là một sự giằng xé mãnh liệt, giữa một bên là quê hương, và một bên là tổ quốc.
Câu chuyện sẽ diễn biến thế nào, mời các bạn đọc bài tiếp theo: Diễn biến ban đầu của Nội Chiến