Nga vs. Ukraine

Trump và kế hoạch hòa bình vội vã cho Ukraina

Nếu chính quyền Trump ép Zelensky ký một văn kiện nghiêng hẳn về phía Nga, lòng tin của dân chúng vào Tổng thống sẽ sụt giảm nghiêm trọng

tong thong ukraine

Tác giả bài gốc: Janina Dill, Marnie Howlett, and Carl Müller-Crepon

JANINA DILL là Chủ tịch Dame Louise Richardson về An ninh Toàn cầu tại Trường Chính phủ Blavatnik, Đại học Oxford.

MARNIE HOWLETT là Giảng viên Bộ môn tại Trường Nghiên cứu Toàn cầu và Khu vực Oxford và tại Khoa Chính trị và Quan hệ Quốc tế, Đại học Oxford.

CARL MÜLLER-CREPON là Trợ lý Giáo sư tại Khoa Chính phủ, Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London.

Vào cuối tháng Một vừa qua, khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump trở lại Nhà Trắng, ông đã công khai thể hiện mong muốn kết thúc nhanh chóng cuộc chiến tại Ukraina mà không mấy quan tâm đến ý nguyện của chính người dân Ukraina. Thay vì kế thừa chính sách duy trì áp lực và cô lập lâu dài Tổng thống Nga Vladimir Putin của phương Tây, Trump lại chủ động thân thiện với Putin. Điểm đáng chú ý là vào đầu tháng Hai, ông đã nói chuyện qua điện thoại với nhà lãnh đạo Nga trong 90 phút mà không hề báo trước cho Ukraina hay các đồng minh châu Âu. Tiếp đó, Ngoại trưởng của Trump, Marco Rubio, đã gặp gỡ người đồng cấp Nga tại Riyadh, Ả Rập Xê Út, vẫn không có bất kỳ đại diện nào của Kyiv tham dự.

Song song với những động thái này, Trump công khai chỉ trích Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky bằng cách gọi ông là một “nhà độc tài”, đồng thời đổ lỗi cho Ukraina – một cáo buộc khó hiểu – rằng chính Ukraina đã khơi mào cuộc chiến bùng phát từ năm 2014 (bắt nguồn từ việc Nga chiếm đóng Crimea và một phần Donbas). Phát biểu ngày 21 tháng Hai, ông Trump nói: “Tôi đã có những cuộc trao đổi rất tích cực với Putin, còn với Ukraina thì không được suôn sẻ như vậy”. Rõ ràng, thông điệp từ Washington dưới chính quyền Trump là đặt mục tiêu chấm dứt chiến tranh, thậm chí chấp nhận lập trường của Ngaphớt lờ quan điểm của người Ukraina.

Nhiều nhà quan sát quốc tế nhận xét rằng Trump đang mắc sai lầm chiến lược, bởi việc gạt Ukraina khỏi bàn đàm phán không chỉ vi phạm nghiêm trọng chuẩn mực ngoại giao quốc tế, mà còn tiềm ẩn nguy cơ đàm phán thất bại. Dĩ nhiên, Washington có sức ảnh hưởng lên Kyiv, bởi nếu Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự, khả năng phòng vệ của Ukraina sẽ bị tổn hại. Tuy nhiên, chính quyền Trump không thể ra lệnh cho Ukraina buông súng. Nếu ép Zelensky chấp nhận một thỏa thuận xa rời nguyện vọng người dân Ukraina, hiệp ước hòa bình đó nhiều khả năng sẽ tan vỡ nhanh chóng. Quan điểm của người dân Ukraina là yếu tố quyết định tính chính danh cả về đạo đức lẫn pháp lý. Rốt cuộc, chính người dân Ukraina mới là những người đang cầm súng trên chiến trường, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc.

Câu hỏi trọng tâm hiện nay: “Liệu người dân Ukraina có sẵn sàng nhượng bộ để đổi lấy hòa bình?” Suốt năm đầu tiên sau khi Nga mở cuộc xâm lược toàn diện (từ tháng Hai năm 2022), câu trả lời gần như không. Khảo sát chúng tôi thực hiện vào tháng Bảy năm 2022 trên 1.160 người Ukraina cho thấy họ không chấp nhận việc đánh đổi quyền tự chủ hay nhượng lãnh thổ cho Nga, dù viễn cảnh đó có thể giúp giảm thương vong dân sự, quân đội hay nguy cơ tấn công hạt nhân. Họ kiên quyết chọn kháng cự bằng mọi giá.

Tuy vậy, trong bối cảnh sau 3 năm chiến sự ác liệt, tình hình có phần thay đổi. Chúng tôi đã lặp lại khảo sát vào tháng 12 năm 2024 và tháng 1 năm 2025 để xem người dân Ukraina đã điều chỉnh quan điểm ra sao. Kết quả mới nhất – được công bố chi tiết trong một báo cáo nghiên cứu – cho thấy, dù vẫn có lằn ranh đỏ là không chấp nhận để Nga kiểm soát chính quyền, người dân Ukraina có chút nhượng bộ hơn so với trước đây. Một bộ phận có thể chấp nhận để Crimea tiếp tục nằm dưới sự chiếm đóng của Nga, hoặc không gia nhập NATO, thậm chí nhượng một phần Donbas, với hy vọng giảm thiểu thương vong cho dân thường và binh lính.

Dẫu vậy, những tín hiệu nhượng bộ này không đồng nghĩa với việc người Ukraina dễ dàng chấp nhận một thỏa thuận “lệch” hoàn toàn về phía Nga. Trên thực tế, chính sách “bắt tay” với Putin của Trump rất khó mang lại một giải pháp hòa bình bền vững, vì nó không phản ánh đúng mong muốn của người dân Ukraina. Chính Trump đã công khai ủng hộ các đòi hỏi của Nga trước khi có bất kỳ cuộc đàm phán chính thức nào – ví dụ như bác bỏ khả năng trả lại đường biên giới trước năm 2014, hay loại trừ cơ hội Ukraina gia nhập NATO. Tại Liên Hợp Quốc, Hoa Kỳ thậm chí hai lần ủng hộ Nga vào ngày 24 tháng Hai (kỷ niệm ba năm cuộc xâm lược toàn diện): trước hết phản đối nghị quyết lên án Nga, sau đó đưa ra bản dự thảo kêu gọi chấm dứt chiến tranh mà không đề cập gì đến hành vi xâm lược của Nga.

Người dân Ukraina vẫn không hề mệt mỏi đến mức tuân phục những đòi hỏi vô lý. Họ vẫn nỗ lực kháng cự mọi âm mưu đặt Ukraina dưới tầm kiểm soát của Ngaphần lớn vẫn phản đối nhượng bộ lãnh thổ. Nếu Trump cùng Putin áp đặt một giải pháp mà trong đó Ukraina có nguy cơ trở nên “một ngày nào đó trở thành Nga” (như Trump nói ngày 11 tháng Hai), thì nhiều khả năng người dân sẽ tiếp tục chiến đấu – có thể với sự trợ giúp mạnh hơn từ châu Âu – kể cả trong trường hợp Hoa Kỳ rút hỗ trợ quân sự. Điều đó có nghĩa Trump sẽ thất bại trong lời hứa tranh cử về “chấm dứt cuộc chiến đẫm máu này”. Đồng thời, nước Mỹ sẽ “mất mặt” vì đã tưởng thưởng cho kẻ xâm lược và khiến tính mạng người dân Ukraina cùng nhiều nơi khác càng bị đe dọa.

Kể từ khi Nga mở cuộc xâm lược toàn diện vào tháng Hai năm 2022, nhiều học giả, chính trị gia, và lãnh đạo phương Tây đã kêu gọi chính phủ Ukraina thỏa hiệp như nhượng một phần lãnh thổ để nhanh chóng chấm dứt chiến tranh. Ngay từ khi xe tăng Nga vừa tiến qua biên giới, không ít chiến lược gia phương Tây đã tiên đoán Ukraina không thể trụ vững trước sức mạnh vượt trội của Nga. Nhưng bất ngờ, Ukraina đã giành thắng lợi trong việc bảo vệ Kyiv, khiến nhiều ý kiến kêu gọi đàm phán (ví dụ tại Istanbul hồi tháng Ba năm 2022) tạm thời lắng xuống. Song, ý tưởng “thỏa hiệp hòa bình” chưa bao giờ bị dập tắt hoàn toàn. Khi cuộc phản công của Ukraina gặp khó khăn vào mùa hè năm 2023, lời kêu gọi nhượng bộ lại trỗi dậy, lấy lý do tổn thất nhân mạng quá lớn, khủng hoảng kinh tế, và nguy cơ vũ khí hạt nhân.

Từ góc độ đạo đức, việc kêu gọi Ukraina nhượng một phần để tránh thương vong kéo dài cũng có một số lập luận nhất định. Lý thuyết chiến tranh chính nghĩa yêu cầu cuộc chiến phòng vệ phải có cơ hội thành công thực sự. Ngay cả khi chính nghĩa thuộc về Ukraina, cuộc chiến cũng có thể trở nên phi lý về mặt đạo đức nếu cái giá hy sinh vượt quá lợi ích đạt được, nhất là khi không thể ngăn chặn kẻ xâm lược. Thế nhưng, điều đó chưa chắc đã đúng với trường hợp hiện nay, bởi chưa ai thể chắc Ukraina không đủ sức giành lại quyền tự quyết cuối cùng. Quan trọng hơn, khi phần lớn chi phí bằng máu xương đều do người Ukraina gánh chịu, thì tiếng nói của họ mới là chính yếu.

Vì lẽ đó, trong cả hai lần khảo sát (năm 2022 và 2024–2025), chúng tôi không đơn giản hỏi người dân Ukraina “Có ủng hộ đàm phán không?” vì đó là câu hỏi mơ hồ. Thay vào đó, chúng tôi đặt người trả lời vào vị trí chính phủ: họ được lựa chọn các kịch bản chính sách trong 3 tháng tiếp theo, với những biến số về chiến trường và đàm phán khác nhau, ví dụ:

  • Ukraina đòi lại toàn bộ lãnh thổ (bao gồm Crimea cùng Donetsk, Luhansk).
  • Ukraina chỉ giành lại một phần (giả định không tính Crimea).
  • Ukraina phải nhượng Crimea hoặc cả Donetsk, Luhansk cho Nga.
  • Ukraina vẫn giữ toàn quyền tự chủ, không để Nga can thiệp chính trị.
  • Ukraina trở thành vùng đệm trung lập, không gia nhập NATO.
  • Ukraina bị Nga kiểm soát chính trị (trong nước, đối ngoại).

Ngoài ra, mỗi kịch bản đính kèm mức thương vong (tăng/giảm so với giai đoạn đầu cuộc xâm lược), cũng như nguy cơ tấn công hạt nhân (0%, 5%, 10%). Người tham gia khảo sát phải cân nhắc giữa việc tiếp tục chiến đấu hoặc chấp nhận nhượng bộ để giảm con số thương vong hoặc hạ rủi ro hạt nhân. Qua đó, chúng tôi đánh giá được khả năng “thỏa hiệp” mà người dân Ukraina thực sự chấp nhận.

Kết quả của khảo sát tháng Bảy năm 2022 cho thấy, người dân Ukraina gần như kiên định: họ chọn tiếp tục chiến đấu để giành lại 100% lãnh thổbảo vệ quyền tự chủ, bất chấp nguy cơ tổn thất nhân mạng cao hay tấn công hạt nhân. Họ nhất quyết không lùi bước. Đúng như lời Zelensky tuyên bố hồi tháng Ba năm 2022: “Chúng tôi sẽ chiến đấu cho mảnh đất của mình, bằng bất cứ giá nào”.

Sau 3 năm, quan điểm của một bộ phận người dân dịu đi đôi chút. Lần khảo sát năm 2024–2025 ghi nhận rằng, một số sẵn sàng không gia nhập NATO hoặc EU để giảm thương vong. Trước đây, năm 2022, khi so sánh giữa giải pháp trung lậptoàn quyền tự chủ, cứ 100 người thì 48 người phản đối trung lập quyết liệt, ngay cả khi trung lập giúp giảm đáng kể thiệt hại. Trong khi hiện nay, con số ấy giảm còn 36%.

Thêm vào đó, xu hướng nhượng bộ về lãnh thổ cũng tăng nhẹ. Nếu năm 2022, trước các phương án khác nhau, 67% người được hỏi chọn chiến đấu để đòi lại Crimea, Donetsk, Luhansk, còn 33% cân nhắc nhượng bộ để bảo toàn tính mạng hoặc đảm bảo Ukraina không bị can thiệp chính trị. Thì bây giờ, 63% vẫn muốn chiến đấu cho toàn vẹn lãnh thổ, còn 37% suy nghĩ về việc nhượng một phần. Quan trọng là, đa phần những ai chịu nhường lãnh thổ đều với mục đích tránh bị mất quyền tự chủ, tức thà mất đất còn hơn để Nga kiểm soát chính trị. Tuy nhiên, nếu nỗi lo “mất quyền tự chủ” không được đặt ra, mà việc nhượng lãnh thổ chỉ để giảm thương vong thì con số chọn chiến đấu để giữ đất tăng lên 70%.

Biến chuyển lớn nhất chính là vấn đề Crimea. Nếu năm 2022, 66% sẵn sàng chiến đấu để đòi lại bán đảo này, và chỉ 34% chấp nhận mất Crimea, thì bây giờ tỉ lệ bảo lưu quyết tâm dành cho Crimea giảm còn 59%, trong khi 41% chấp nhận tạm để Nga chiếm đóng để tránh tổn thất lớn hơn. Tuy nhiên, ý nghĩa của con số này là: mất Crimea vẫn được xem là tổn thất lớn hơn rất nhiều so với nguy cơ hạt nhân. Khi khảo sát đưa ra viễn cảnh 5–10% nguy cơ hạt nhân, nhiều người Ukraina vẫn thà chọn đối mặt rủi ro thay vì đánh đổi Crimea.

Nhìn chung, phần lớn người dân Ukraina được hỏi vẫn chấp nhận mức giá rất cao về mặt quân sự (thậm chí tăng gấp 4 lần thương vong so với 3 tháng đầu cuộc xâm lược) chỉ để không phải nhượng chính trị hoặc lãnh thổ cho Nga. Cụ thể, khi lựa chọn giữa 6.000 binh sĩ hi sinh và 24.000 binh sĩ hi sinh, 43% sẵn sàng chịu đựng con số thương vong gấp bốn lần, nếu điều đó đồng nghĩa với việc không để Nga can thiệp vào công việc nội bộ.

Quan trọng nhất, khảo sát cũng cho thấy: người Ukraina gần như đồng lòng không chấp nhận bất kỳ kế hoạch hòa bình nào để Nga kiểm soát chính quyền ở Kyiv. Khi đặt trước hai lựa chọn “Nga chi phối” và “Tự chủ chính trị” với các điều kiện chi phí khác nhau, có đến 77% tiếp tục chọn độc lập (năm 2022 con số này là 81%). Thậm chí, tăng hoặc giảm thương vong, hay biến động nguy cơ hạt nhân, không ảnh hưởng nhiều đến quyết tâm phản đối bị đô hộ.

Tôn trọng ý nguyện của người dân Ukraina là yêu cầu rõ ràng khi bàn về tương lai quốc gia này. Ukraina là nạn nhân của hành vi xâm lược, nên càng không thể bị buộc nhượng lãnh thổ. Luật pháp quốc tế cũng nghiêm cấm thừa nhận kết quả của hành động chiếm đóng bằng vũ lực. Ngay cả khi chính phủ Ukraina, vì lý do nào đó, chấp nhận một thỏa thuận, khả năng thỏa thuận đó “vô hiệu” về mặt pháp lý vẫn rất cao. Các quốc gia khác có thể khó hoặc không nên phớt lờ việc nó trái với nguyên tắc “không công nhận lãnh thổ bị thôn tính bất hợp pháp.” Nếu thỏa thuận ít nhất phản ánh được ý chí của người dân Ukraina, các nước có thể dễ dàng ủng hộ hoặc làm ngơ hơn, bất kể các vấn đề pháp lý phức tạp.

Tuy nhiên, có vẻ Trump không hứng thú gì với luật pháp hay các giá trị đạo đức; ông chỉ quan tâm kết quả chấm dứt chiến tranh để ghi điểm chính trị. Về mặt chiến lược, gạt người Ukraina ra bên lề rất dễ phản tác dụng. Nếu Trump chịu đàm phán mà lắng nghe quan điểm của Kyiv, nhiều khả năng hai bên có thể tìm được những điểm dung hòa. Nhưng thực tế, Trump coi Zelensky như “tay chơi phụ”. Điều đó vô hình trung đẩy quá trình hòa bình đi vào bế tắc. Một thỏa thuận vượt quá lằn ranh đỏ của Ukraina sẽ bị tẩy chay. Người dân Ukraina sẵn sàng đứng lên phản đốitiếp tục chiến đấu, bất chấp Mỹ dừng viện trợ.

Nếu chính quyền Trump, với sức ép của mình, buộc Zelensky ký vào một văn kiện nghiêng hẳn về phía Nga, lòng tin của dân chúng vào Tổng thống sẽ sụt giảm nghiêm trọng (hiện nay, theo khảo sát tháng Hai của Viện Xã hội học Quốc tế Kyiv, vẫn có 63% người ủng hộ Zelensky). Ngay sau đó, khi Ukraina tổ chức bầu cử – vốn là một trong những đòi hỏi của Putin và Trump – người dân có thể chọn ra một nhà lãnh đạo khác công khai “xé bỏ” thỏa thuận ép buộc. Vô hình trung, bầu cử ở Ukraina có thể trở thành “vũ khí” giúp họ thoát khỏi một giải pháp hòa bình mang tính áp đặt.

Trong trường hợp tồi tệ hơn, dù Nga chiếm đóng được Kyiv (một kịch bản cực kỳ khó xảy ra, bởi Ukraina từng cho thấy khả năng phòng vệ hiệu quả), chiến tranh có thể vẫn không chấm dứt. Chúng tôi từng mở rộng khảo sát năm 2024–2025, mô phỏng kịch bản tăng vọt thương vong quân sự lên 160.000 trong 3 tháng và nguy cơ hạt nhân lên 45%. Ngay cả khi đối diện tình huống kinh hoàng đó, phần lớn người Ukraina vẫn không nhượng quyền kiểm soát chính phủ hay lãnh thổ cho Nga. Lịch sử thế giới cũng cho thấy, sự kháng cự của dân tộc bị xâm lược có thể kéo dài rất lâu dưới nhiều hình thức, như người Ireland chống Anh, người Algeria chống Pháp, hoặc người Tây Tạng chống Trung Quốc. Một cuộc nổi dậy hoàn toàn có thể tiếp tục ngay cả khi Nga lập chính quyền bù nhìn tại Kyiv.

Điều này sẽ khiến Trump lâm vào thế mắc kẹt, vì ông từng tự tin tuyên bố “sẽ chấm dứt chiến tranh Ukraina trong vòng 24 giờ”. Nó cũng có thể khiến một số nhà phân tích phương Tây thất vọng, những người từ lâu dự báo rằng Ukraina “không còn lựa chọn nào khác”. Dưới góc nhìn chủ nghĩa hiện thực, giáo sư John Mearsheimer từng lập luận rằng “người Ukraina không có mấy lựa chọn, trừ việc phải chiều theo yêu sách của Nga”.

Tuy nhiên, thực tế khảo sát lại cho thấy người Ukraina mới là những nhà hiện thực. Họ nhận thức rõ việc gia nhập NATO có thể là điều khó khăn (61% cho rằng Ukraina khó trở thành thành viên NATO theo bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào), sẵn sàng thỏa hiệp một số mặt. Nhưng họ cũng hiểu cái giá của việc để Nga chi phối chính trị. Ba năm chiến tranh đẫm máu đã tôi luyện tinh thần: “Chúng tôi thà mất tất cả còn hơn mất tự do.” Khi một dân tộc cùng đồng lòng tuyên bố rằng “chúng tôi sẽ không bao giờ chấp nhận bị Nga cai trị”, thì bất kỳ “thỏa thuận hòa bình” nào gạt bỏ ý chí ấy đều không chấm dứt được chiến tranh.

Không có gì “hiện thực” khi cố ép buộc 39 triệu con người phải chấp nhận một phiên bản Ukraina què quặt, bị nắn chỉnh dưới sức ép của các siêu cường. Trong cuộc xung đột này, lắng nghe người Ukraina, tôn trọng khát vọng độc lập của họ không chỉ là đạo đức, mà còn là lựa chọn khôn ngoan để đạt một hòa bình bền vững.

Tóm lại, Trump và những người ủng hộ lập trường “hòa bình bằng mọi giá” đang đánh giá sai về khả năng cam chịu của người Ukraina. Chiến tranh sẽ khó kết thúc nếu thỏa thuận vi phạm nguyên tắc cốt lõi mà dân Ukraina quyết tâm bảo vệ: giữ vững quyền tự chủ, không để lãnh thổ, chính quyền, hay tương lai đất nước nằm trong tay Moscow. Nếu chính quyền Trump nhất mực ép buộc Zelensky, hoặc bỏ qua Ukraine trong đàm phán với Putin, hậu quả có thể còn nghiêm trọng hơn: chiến tranh tiếp diễn, Mỹ mất uy tín, và người dân Ukraina tiếp tục chiến đấutự do. Kịch bản đó không phải là viễn cảnh mà thế giới mong muốn, và chắc chắn cũng không phải “thành công” mà Trump hằng hứa hẹn với cử tri Mỹ.

5/5 - (1 vote)

MỚI NHẤT