Vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX, khi nước ta đang đứng trước những biến động lịch sử dữ dội, xã hội Việt Nam vẫn chìm trong nền giáo dục Nho học lạc hậu, xa lạ với những tiến bộ khoa học – kỹ thuật phương Tây. Ngay cả giới tinh hoa, quan lại cũng chủ yếu được đào tạo theo lối từ chương, hư văn, nặng mục đích làm quan hơn là khám phá, đổi mới.
Trong bối cảnh đó, Trương Vĩnh Ký xuất hiện như một trí thức hiếm hoi có khả năng giao lưu, tiếp xúc với nền học vấn châu Âu, lại mang trong mình tinh thần “khai sáng” nhằm nâng cao dân trí. Nhiều tài liệu ghi lại ý kiến của ông về sự cần thiết phải “khai hóa dân tộc”, nhất là bằng con đường giáo dục, phổ biến chữ quốc ngữ, dịch sách báo khoa học và tổ chức in ấn, xuất bản.
Nỗ lực của Trương Vĩnh Ký, cũng như một số nhà canh tân cùng thời, cho đến nay vẫn có những cách nhìn khác nhau. Có người ngợi khen ông là “thiên tài” trong việc soạn sách, dịch thuật, mở ra hướng học tập mới cho dân tộc. Cũng không ít người hoài nghi, hoặc phê phán ông như một người “ảo tưởng”. Tuy nhiên, nếu đặt công việc của ông trong bối cảnh dòng tư tưởng Khai sáng và đặc điểm văn hóa – xã hội Việt Nam thời bấy giờ, ta sẽ thấy rằng những gì ông theo đuổi, nỗ lực cổ xúy lại vô cùng phù hợp với tiến trình hiện đại hóa tất yếu, vốn đã diễn ra từ rất lâu ở phương Tây.
Dưới đây, bài viết sẽ điểm qua (1) bối cảnh thời Khai sáng châu Âu mà Trương Vĩnh Ký đã tiếp xúc, (2) tình trạng giáo dục và dân trí nước ta vào thế kỷ XIX, và (3) những hoạt động của Trương Vĩnh Ký trong công cuộc khai dân trí. Qua đó, chúng ta có thể hình dung rõ hơn động lực nào đã khiến ông lựa chọn con đường cải cách, phổ biến kiến thức và chữ quốc ngữ – con đường mà không ít nhà nho đương thời xem như “lập dị”.

Tiếp xúc thành tựu Khai Sáng châu Âu
Nhận định của Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam cho rằng “Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên đem cái chương trình cải cách của Nguyễn Trường Tộ ra thi hành” cho thấy tương đồng về tư tưởng canh tân của hai trí thức này. Dù ta chưa tìm được chứng cớ về mối liên lạc trực tiếp giữa Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Trường Tộ, song việc cả hai “gặp nhau” trên con đường cải cách không có gì lạ, bởi cả hai đều sớm tiếp xúc với nền học vấn phương Tây, nơi trào lưu Khai sáng (Enlightenment) đã trở thành nền tảng.
Tiền đề của trào lưu Khai Sáng
Thế kỷ XVIII – XIX ở châu Âu, nhất là tại Pháp và các nước Âu Tây, chứng kiến sự bùng nổ của tư tưởng, khoa học, kỹ thuật, cùng với tinh thần tự do truy cầu tri thức. Phát minh máy in con chữ rời từ thế kỷ XV (Johannes Gutenberg, 1439) đã tạo ra cú hích khổng lồ: số lượng sách in tăng lên chóng mặt, thúc đẩy giáo dục và học thuật lan rộng ra nhiều tầng lớp. Họ không chỉ phát triển về hàng hải, vũ khí, mà còn tiến rất xa về văn chương, nghệ thuật, các ngành khoa học cơ bản như toán, thiên văn, vật lý…
Châu Âu cũng trải qua giai đoạn Phục Hưng và tiếp nối là Khai sáng, mang tinh thần “Sapere Aude” (Hãy can đảm dùng trí tuệ của chính mình), như triết gia Kant (1724–1804) tuyên bố. Nghĩa là, con người tự tin dùng lý trí để vén màn tăm tối, không còn lệ thuộc hoàn toàn vào những giáo điều cũ. Diderot, d’Alembert cùng nhiều học giả Pháp biên soạn bộ Encyclopédie khổng lồ, tham vọng quy tụ mọi tri thức nhằm “giúp con người trở nên biết nhiều hơn, đức hạnh hơn và hạnh phúc hơn”.
Khát vọng khai sáng ấy không chỉ giới hạn ở tầng lớp tinh hoa mà còn lan tỏa đến quảng đại quần chúng, nhờ báo chí, sách phổ thông… Đối với những ai đến châu Âu, hoặc biết tiếng Âu và đọc sách của họ vào thế kỷ XIX, ấn tượng về “sức mạnh tri thức” và “tinh thần tự do” để góp phần tiến bộ xã hội là rất sâu sắc.

Di sản thời Khai Sáng trong xã hội phương Tây
Các tư tưởng gia Khai sáng dành đặc biệt nhiều trang viết để nói về vai trò của giáo dục. Họ coi phổ biến kiến thức khoa học, tự do tư tưởng, và “giải phóng con người khỏi trạng thái chưa trưởng thành” là sứ mệnh hàng đầu. Đến giữa thế kỷ XIX, nước Pháp (và nhiều nước Tây phương khác) vẫn tiếp tục phát huy tinh thần đó, coi sách báo, trường học, viện hàn lâm… là những công cụ quan trọng nâng dân trí.
Không khí cởi mở, tinh thần đề cao khoa học, sự nỗ lực khai hóa… đã trở thành động lực khiến nhiều trí thức Việt Nam, trong đó có Trương Vĩnh Ký, ý thức rõ ràng về tầm quan trọng của việc cải tổ, nâng cao dân trí. Trong nhiều cuộc đàm đạo với Léon Gautier, ông từng khẳng định “công việc khai hóa dân tộc cũng phải nhắm vào việc nâng cao dân trí”. Khi sang Pháp năm 1863, ông tiếp xúc với một xã hội công nghiệp hóa mạnh mẽ và thấy rõ người phương Tây không chỉ “mạnh về súng đạn” mà còn có nền tảng tư tưởng tiến bộ, tôn trọng tri thức và tinh thần nghiên cứu.

Bài Liên Quan
Thực trạng giáo dục và dân trí người Việt đầu thế kỷ 20
Dẫu trải qua nhiều biến chuyển lịch sử, giáo dục nhà Nguyễn vẫn chủ yếu theo khuôn mẫu Nho học Trung Hoa. Mục đích chính của người đi học là “dùi mài kinh sử”, thi đỗ đạt để ra làm quan, thăng tiến. Những bài thi Hương, thi Hội vẫn xoay quanh Tứ Thư, Ngũ Kinh, rồi chiếu, chế, biểu, thơ phú, văn sách… với nội dung hư văn, xa vời thực tiễn.
Triều đình thiếu hẳn những môn khoa học tự nhiên, kỹ thuật, địa lý… – vốn rất được đề cao ở phương Tây. Kết quả là khoa cử chỉ sản sinh nhiều “thư sinh từ chương”, rất ít người am hiểu tình hình thế giới, càng hiếm ai có tinh thần “nghiên cứu”. Trần Trọng Kim từng nhận xét “đem sự hoa mỹ làm mực thước đo tài kinh luân”, thành thử nhiều nho sĩ có ảo tưởng về khả năng trị quốc, trong khi năng lực xử lý công việc thực tế lại quá hạn chế.
Nhìn lại các cuộc tiếp xúc với phương Tây suốt mấy thế kỷ, ta thấy Việt Nam hầu như chưa học hỏi được gì nhiều, ngoài một số ít nỗ lực riêng lẻ. Chính vì thế, đến giữa thế kỷ XIX, quan lại triều đình khi đối diện với sứ thần nước ngoài vẫn giữ não trạng “Trung Hoa là trung tâm văn minh, còn phương Tây là man di”. Thậm chí có quan tuyên bố huênh hoang với đại diện Pháp: “Một người An Nam dư sức chống lại ba người Pháp”.
Tư tưởng “tự tôn” nhưng thiếu cơ sở khoa học, thiếu thông tin thế giới dẫn đến hàng loạt quyết sách sai lầm, không kịp đổi mới, khiến đất nước rơi vào khủng hoảng khi bị thực dân đe dọa. Từ đời Minh Mạng, Tự Đức… tuy nhận ra giáo dục trì trệ, song cũng chỉ muốn “dần dần đổi lại”. Các bản điều trần của Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ… không được trọng dụng, hoặc bị bỏ qua.
Người dân thì hầu hết mù chữ (hoặc chỉ biết lõm bõm). Cơ hội tiếp cận kiến thức khoa học gần như bằng không. Gặp phương Tây – vốn đã trải qua thời Khai sáng, công nghiệp hóa – người Việt bị lấn át toàn diện. Việc học hành “mang nặng mục đích mưu lợi cá nhân” (như Tsuboi nhận xét), không vì “chân trời mới” hay “khám phá khoa học” khiến ta luôn lùi dần trên bản đồ thế giới.

Những gì Trương Vĩnh Ký đã làm
Trong bối cảnh đó, Trương Vĩnh Ký ý thức rõ: thay đổi phải bắt đầu từ giáo dục và phổ biến kiến thức. Lý tưởng “khai dân trí” không thể dựa vào “cách mạng bạo lực” hay “lật đổ một triều đại”, vì như Kant từng nói, “một cuộc cách mạng có thể lật đổ chế độ chuyên chế, nhưng không dẫn đến thay đổi thật sự về tư duy”. Thay vào đó, cần “tiếp cận với tri thức một cách từ từ” – tức từng bước gieo mầm nhận thức mới, nhất là hướng tới quảng đại quần chúng.
Phổ biến chữ Quốc ngữ
Ngay từ năm 1864, ông đã viết thư cho nhà địa lý R. Cortambert, chỉ ra bất tiện của chữ Hán Nôm trong việc truyền bá kiến thức khoa học. Người ta có thể “dấn thân vào khoa học” bằng ký tự tượng hình, nhưng phải trả giá bằng cả tuổi thanh xuân chỉ để nhớ hàng nghìn ký hiệu phức tạp, không còn thời gian thực sự nghiên cứu khoa học. Vậy thì dùng chữ quốc ngữ “vô cùng tiện lợi” là giải pháp thiết thực nhất.
Trương Vĩnh Ký cổ xúy biến chữ quốc ngữ thành công cụ phổ thông cả nước, “cần phải thế để đem lại điều tốt lành và tiến bộ”, như ông viết ở Manuel des écoles primaires (1876–1877). Để thực hiện, ông dồn sức vào dạy học, soạn sách giáo khoa, “viết báo, in tài liệu”, dùng mọi phương tiện để “cổ động cho một lối học mới”. Ông tin rằng chỉ khi dân chúng học chữ quốc ngữ, họ mới có thể tiếp cận rộng rãi các tư tưởng, khoa học ở phương Tây, cũng như thẩm thấu tri thức của chính dân tộc mình.

Sách báo và hoạt động nghiên cứu
Báo chí, in ấn là thành tựu của thời Khai sáng ở châu Âu, giúp phổ biến tư tưởng nhanh nhất đến quần chúng. Từ năm 1869, khi Trương Vĩnh Ký tham gia chủ bút Gia Định báo, rồi sau này viết cho Thông Loại khóa trình, các tài liệu thường thức… ông nỗ lực đưa vào những nội dung xoay quanh lịch sử, địa lý, khoa học, thơ văn dân tộc. Mục đích là để “làm người dân khôn ra”, “không còn sợ tăm tối trí tuệ”.
Ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ tư duy ngôn ngữ học so sánh ở châu Âu (thế kỷ XVIII – XIX). Việc ông biên soạn ngữ pháp, tự điển, nghiên cứu tiếng Việt và đối chiếu với các ngôn ngữ khác (La-tinh, Pháp, Hán) nằm trong tinh thần “sắp xếp hệ thống ngôn ngữ” mà Khai sáng thúc đẩy. Nguyễn Văn Tố đánh giá cao tác phẩm ngôn ngữ học của Trương Vĩnh Ký, cho thấy ông “tinh thông và luôn chính xác về các ý kiến tổng quát”.
Không thể phủ nhận rằng, khi đương thời, Trương Vĩnh Ký cũng phải đối mặt với dư luận nghi ngại. Ông vừa được người ta ca tụng là “thiên tài” trong “dịch sách, làm báo, lập trường”, lại vừa bị những nho sĩ thủ cựu, và cả một bộ phận dân chúng hiểu lầm ông cộng tác với Pháp. Nhưng thực chất, việc hợp tác với chính quyền thuộc địa (trên một số khía cạnh) đơn giản là con đường duy nhất ông có thể vận dụng để mở mang dân trí, bởi triều đình Huế vốn đóng kín cửa, không tạo điều kiện cho các công cuộc “giáo hóa” kiểu mới.

Giải pháp tích cực và khó khăn
Ý thức được “dân tộc ta dốt, bị áp bức, khinh rẻ” như lời Tân Nam Tử (Nguyễn Văn Vĩnh) những năm đầu thế kỷ XX, Trương Vĩnh Ký đã sớm khởi sự “làm cho dân ta khôn”. Thái độ này trùng khớp với quan điểm của nhiều nhà canh tân, rằng “chỉ khi dân trí nâng cao, người Việt mới thoát khỏi cảnh bị cai trị, bóc lột”. Lý tưởng đó là “kế sách lâu dài” – khác hẳn những cách thức khởi nghĩa quân sự hoặc phong trào bài ngoại đơn thuần.
Cũng nên nhắc lại rằng, việc dùng tiếng mẹ đẻ để phát triển văn học, khoa học là bài học từ thời Phục Hưng châu Âu. Những Dante, Chaucer, Luther… đã vứt bỏ vai trò độc tôn của tiếng La-tinh, đưa các dân tộc Tây Âu bước vào giai đoạn hiện đại hóa ngôn ngữ và văn hóa. Trương Vĩnh Ký, với trực giác và kinh nghiệm ở châu Âu, hiểu rõ: chữ quốc ngữ sẽ giải phóng dân tộc khỏi lối chữ tượng hình rườm rà. Từ đó, người dân có thể cập nhật kiến thức mới, xây dựng nền tảng giáo dục phổ thông có chiều sâu.
Tóm lược
Dĩ nhiên, Trương Vĩnh Ký cũng không tránh khỏi những “ảo tưởng”, nhất là ở giai đoạn trẻ. Ông từng nghĩ về sự thịnh hành của La-tinh và thần học ở Pháp, mang hàng ngàn trang bản thảo sang in, rồi vỡ lẽ rằng thời đại ở Pháp đã thay đổi, không còn phù hợp nữa. Song điều chắc chắn: ông không hề “ảo tưởng” khi dồn hết sức cho công cuộc cổ động chữ quốc ngữ, in ấn báo chí, phổ biến tri thức, cũng như cố gắng khơi dậy tinh thần học thuật nước nhà. Ý hướng đó bám sát tinh thần Khai sáng – “làm cho con người khôn ra”.
Một thế kỷ sau, bài xã luận đầu tiên trên Việt Nam Độc lập (1-8-1941) của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) cũng nhấn mạnh: “Tây cốt làm cho dân ta ngu… Ta ngu hèn thì nó dễ trị, dễ ăn hiếp.” Muốn thoát ngu hèn, muốn thoát bị áp bức, bóc lột, người dân Việt Nam phải học, phải khơi sáng trí tuệ. Trên con đường nâng dân trí ấy, Trương Vĩnh Ký là một trong những người tiên phong, để lại dấu ấn lớn trong lịch sử văn hóa – giáo dục dân tộc. Dù bị nghi ngờ hay hiểu lầm, đóng góp của ông vẫn nổi bật ở chỗ: thúc đẩy tinh thần “khai dân trí” bằng chính những phương pháp, tư tưởng và công cụ mang hơi thở của thời đại Khai sáng, giúp người Việt chuyển mình, từng bước hòa nhập cùng thế giới văn minh.