Theo như sách sử xa xưa, Văn Lang xưa có toàn bộ 15 bộ như sau:
- Văn Lang: (Nằm tại Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên).
- Châu Viên: (Nằm tại tỉnh Sơn Tây ở vùng núi Ba Vì).
- Phước Lộc: (Nằm trên vùng đồng bằng).
- Tân Hưng: (Nằm tại Hưng Hóa, Tuyên Quang).
- Vũ Định: (Thái Nguyên và một phần vùng Hoa Nam).
- Vũ Ninh: (Bắc Ninh).
- Lục Hải: (Lạng Sơn và một phần đất Quảng Tây).
- Ninh Hải: (Quảng Yên và một phần đất Quảng Đông).
- Dương Tuyền: (Hải Dương).
- Giao Chỉ: (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình).
- Cửu Chân: (Thanh Hóa).
- Hoài Nam: (Nghệ An, Hà Tĩnh).
- Cửu Đức: (Vùng sông Đà, sông Mã).
- Việt Thường: (Quảng Bình, Quảng Trị) – nguyên gốc không phải vùng này.
- Bình Văn: (Chưa rõ).
Lãnh thổ nước Văn Lang
Nhìn lại 15 bộ ở trên, có thể thấy rõ trong thời gian của mấy vua Hùng cuối triều đại (thời kỳ Chu Mạt); đất nước Văn Lang bị dồn lên phía bắc, trở thành phần đất Bắc Việt. Miền nam đất Văn Lang chính là đất Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay.
Ranh giới phía bắc của Văn Lang giáp hồ Động Đình (ở tỉnh Hồ Nam), phía tây giáp Ba Thục (ở Tứ Xuyên), phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), và phía đông giáp Biển Đông. Lãnh thổ xưa này là của toàn thể Bách Việt hay còn gọi là Xích Quỉ, mà chúng ta chỉ là một nhánh.
Giáo sư O.Lê Chí Thiệp lại cho rằng, trong các sách xưa bên Trung Quốc, ta không thấy chữ Văn Lang xuất hiện trước đời vua Đường Thái Bình. Chữ Văn Lang được dùng để chỉ các dân Kinh Man (thuộc vùng Sở), dân Việt ở Chiết Giang, và dân Lạc Việt, họ có tục xăm mình, sau dạt về sống lưu vực sông Dương Tử, rồi trôi xuống bờ biển phía nam. Vì vậy, sách vở cũ ghi địa giới Văn Lang phía bắc giáp hồ Động Đình, phía đông giáp biển, phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành) v.v…
Tên gọi Văn Lang do đó ra đời trên cơ sở khái niệm tộc người để phân biệt với các dân tộc không xăm hình và chưa chắc đã thuộc về một quốc gia.
Tóm gọn lại, vùng đất cũ của ta thuở trước là Giao Chỉ, có cả hồ Động Đình, Biển Đông, Tứ Xuyên và Hồ Tôn. Sau khi di cư xuống Bắc Việt, nước ta còn lại 15 bộ như đề cập ở đầu, nằm gọn trong lãnh thổ Bắc Việt đến tận đất Nghệ An, đây là lãnh thổ còn lại cuối cùng của ta sau cuộc nổi dậy của nhà Tần phía Nam và sau khi quốc gia Nam Việt được Triệu Đà thành lập.
Trong các di khảo lịch sử, sách nhắc đến Văn Lang có 15 bộ, trong số đó có các bộ Văn Lang, Giao Chỉ, Việt Thường. Phải chăng, đây là những tên còn từ thuở ta ở nam Trung Quốc nên dân chúng giữ làm tên quốc gia hay là tên của các bộ?
Bài liên quan:
Cơ chế quản trị của Văn Lang
Thời xưa, xã hội ta có một hệ thống phong kiến khá khác biệt. Theo ghi chép của Maspéro trong quyển “Royaume de Văn Lang BEEO”, mỗi Lạc Tướng cai trị một vùng đất gồm nhiều làng; nhiều khu do Lạc Tướng cai trị lại họp thành một vùng lớn hơn, do một Lạc Hầu đứng đầu, tương đương với một tỉnh hoặc vài huyện thời nay. Đôi khi, một Lạc Hầu phong phú sẽ đem đất đai của mình chia cho con cháu, phong thành các Lạc Tướng khác. Công việc của các Lạc Hầu, Lạc Tướng thời bấy giờ là cai trị dân chúng; khi rảnh rỗi thì tụ họp nhau đi săn bắn. Vì bản chất hiếu chiến, thường xảy ra xích mích với các vùng lân cận.
Đi đánh trận, họ mặc một bộ áo giáp rất dày, kết bằng lông chim hay đan bằng cỏ rơm, để tên đạn bắn vào không nhận ra. Áo giáp có hai mảnh trước và sau, che từ lưng xuống bắp chân. Người xưa đóng khố, mặc áo cổ mở, tay áo sặc sỡ. Khi tác chiến, họ mang khiên vuông bằng gỗ đan tre, vẽ hoa lá và mặt người. Đội nón bằng lông chim dài, có kiểu dữ tợn. Cung tên lớn, giáo dài, gươm sắc bén, luôn sẵn sàng bắn, đâm, chém. Tên họ phết thuốc độc, nên dù chỉ xây xát một chút cũng khó sống nổi.
Dân chúng thì phải làm ruộng để tự nuôi mình, lại phải xây cất công trình cho quan, mà không được hưởng lương bổng gì. Dưới con mắt của quý tộc thời này, dân chúng chỉ là tài sản của họ mà thôi. Ngày nay, người ta còn thấy các dân tộc thiểu số chịu sự cai trị của các quan người Việt phía Bắc cũng y như chế độ Lạc Hầu, Lạc Tướng thời xưa vậy.
Dù các Lạc Hầu, Lạc Tướng mỗi người hùng cứ một phương, nhưng vẫn phải nghe theo một người chúa rất mạnh, đóng đô ở vùng tây bắc, sát với khu vực Tây Nguyên của ta, gồm các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Yên, và Sơn Tây. Vùng này có nhiều thung lũng màu mỡ, đồi núi có đất tốt, người đông đúc.
Kinh đô và giai cấp quý tộc
Kinh đô của các vua Lạc đóng tại Phong Châu (huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên bây giờ). Hoàng tộc thời đó họ Hồng Bàng. Lạc Vương đặt ra các chức quan văn gọi là Lạc Hầu, các quan võ gọi là Lạc Tướng, các viên quan nhỏ thì gọi là Bồ Chính. Con trai nhà vua gọi là quan Lang, con gái thì gọi là Mị Nương. Trong các vị trí này, Lạc Hầu lớn hơn Lạc Tướng, các làng rộng rãi thì mới có Lạc Hầu ở. Từ vua xuống quan, tới các Lạc hầu, Lạc tướng, quyền thế rất lớn.
Nước Văn Lang vừa lập, đã chịu ảnh hưởng nhiều từ Trung Hoa, nên từ sớm, các vị vua của ta đã rành về ngoại giao. Đời vua Nghiêu, sử Tàu có chép rằng xứ mình sai sứ sang dâng một con rùa lớn. Thời vua Chu Thành bên Tàu, quyển sách mình vừa kể trên đây cũng nói có chuyện đó.