Sau khi đế quốc Nam Việt sụp đổ, các quan lại nhà Triệu và Lạc hầu Lạc tướng ở Giao Chỉ mất tinh thần và xin đầu hàng nhà Hán dù quân Hán chưa vào cõi. Hai quan chức Giao Chỉ và Cửu Chân nghe theo lời dụ của quan Giám quận Quế Lâm là Cư Ông, đến dinh Lộ Bác Đức xin quy phục và nộp sổ sách dân Âu Lạc, lúc này có 40 vạn người.
Điều đáng chú ý là tại đất Tây Vu, nơi An Dương Vương đóng đô, khi nghe tin con cháu họ Triệu suy vong, các quý tộc địa phương toan tạo phản. Tả tướng Hoàng Đồng do nhà Triệu đặt ở Giao Chỉ đã đàn áp ngay cuộc mưu toan này.
Nhà Tây Hán lập thành các quận sau đây trên lãnh thổ Nam Việt và Giao Chỉ:
- Nam Hải
- Hợp Phố (thuộc Quảng Đông)
- Uất Lâm
- Thương Ngô (bao gồm đất đai tỉnh Quảng Tây)
- Giao Chỉ
- Cửu Chân
- Nhật Nam (bao gồm Bắc Việt và một số tỉnh Trung Việt)
- Châu Nhai
- Đạm Nhĩ (tức đảo Hải Nam)
Theo Hán Thư Địa Lý Chí, Giao Chỉ gồm 92.440 nhà, 746.217 người, có 10 huyện: Liên Lâu, An Định, Câu Lâu, Mê Linh, Khu Lương, Bác Đại, Tây Vu, Long Biên và Châu Diên. Mỗi huyện là một thái ấp của quý tộc cũ. Vị trí của 10 huyện này cho thấy đại khái địa bàn của Giao Chỉ là vùng Trung du và Hạ du Bắc Việt, khoảng giữa lưu vực sông Nhị Hà và sông Thái Bình. Trị sở quận Giao Chỉ lúc này là thành Mê Linh, nay là làng Hạ Lôi, tỉnh Phúc Yên (Sử cũ gọi là Châu Phong, trung tâm của các Lạc vương xưa).
Tây Âu xưa kia An Dương Vương đã hợp nhất với Văn Lang, có lẽ nhà Hán đã sáp nhập vào quận Quất Lâm ở Quảng Tây.
Cửu Chân gồm 35.743 nhà, 166.013 người, 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung (có thể là Đô Lương ngày nay), Dư Phát, Hàm Hoan, Võ Thiết (xưa là Võ Công), đại khái tương đương với miền Thanh Hóa, lưu vực sông Mã, sông Chu và miền Nghệ Tĩnh.
Trị sở Cửu Chân có thể gọi là Tư Phố, tức là làng Đông Sơn gần Hàm Rồng, nơi nhà Bác Cổ Viễn Đông đã khai quật được nhiều di tích về thời đại đồ đồng 25 năm trước đây. Quận Cửu Chân từ trước đến nay thuộc địa bàn của người Lạc Việt.
Quận Nhật Nam mới được thành lập vào đời Tây Hán, nằm ở phía Nam Cửu Chân, phạm vi từ phía Nam Đèo Ngang đến miền Nam Đèo Hải Vân, tức là vào khoảng giữa Trung Việt ngày nay. Quận này gồm 15.460 nhà, 69.485 người, 5 huyện: Chu Ngô, Ty Cảnh, Lộ Dung, Tây Quyền và Tượng Lâm. Trị sở, theo suy đoán của Đào Duy Anh, ở Tây Quyền, nơi Chiêm Thành sau này dựng thành Khu Túc để giữ biên giới phía Bắc. Địa điểm này giáp sông Gianh, tỉnh Quảng Bình, di tích thành Hời vẫn còn đến ngày nay. Dân ở đây là các bộ lạc thuộc giống Anhđô-nê-diêng sống tại các nơi rừng rậm hay theo dọc sông biển. Di duệ của họ là những người Mọi, nhưng trên bờ sông Gianh lúc này đã xuất hiện một số người Lạc Việt, căn cứ vào các đồ đồng đào được ở đây giống hệt đồ đồng đào được ở Đông Sơn.
Đọc thêm:
Nhà Tây Hán cai trị Giao Chỉ
Nhà Tây Hán giữ nguyên bộ máy cai trị do nhà Triệu thiết lập trước đây. Hai chức Điển Sứ được đổi thành Thái Thú, chịu trách nhiệm cai trị dân. Trên Thái Thú là quan Thứ Sử người Trung Quốc. Các Lạc hầu, Lạc tướng vẫn giữ quyền thế tập, cai quản dân chúng và nộp thuế cống cho Thái Thú. Lạc dân vẫn làm ruộng và nộp thuế cho Lạc hầu, Lạc tướng như trước đây. Bên cạnh Thái Thú là quan Đô Úy chỉ huy quân đội đồn trú để giữ gìn trật tự.
Ban đầu, nhà Tây Hán áp dụng chính sách tương đối tự do và nhân nhượng với người Lạc Việt. Tuy nhiên, sau khi Vương Mãng thoái vị, nhà Hán trung hưng thay đổi chính sách, kiểm soát chặt chẽ hơn các châu quận xa. Quan Thứ Sử trước đây chỉ đi kinh lý mỗi năm, nhưng sau này buộc phải đóng đô tại châu trị để đề phòng bất trắc và thi hành luật lệ hà khắc.
Cơ cấu hành chính:
- Thứ Sử có các Lạc viên giúp việc.
- Dưới Thái Thú có Quận thừa thay mặt khi cần thiết.
- Các Duyên sử chia thành các Tào (phòng ban) phụ trách các công việc khác nhau.
- Quan lại cấp trên như Thứ Sử, Thái Thú là người Trung Quốc, nhưng Duyên sử và Thư tá có thể là người bản xứ nếu có văn tự.
Tuy nhà Tây Hán áp dụng nhiều biện pháp để kiểm soát dân chúng và quân đội luôn túc trực đề phòng mầm loạn, nhưng việc cai trị trực tiếp vẫn do quý tộc Giao Chỉ thực hiện. Quý tộc Giao Chỉ có uy lực tinh thần và vật chất để cai trị dân chúng, vốn sống theo hệ thống phong kiến. Do đó, nhà Hán không thể bãi bỏ vai trò của họ, dù luôn nghi ngờ và e dè.
Nhà Tây Hán cai trị Giao Chỉ bằng cách kết hợp bộ máy cai trị cũ của nhà Triệu với chính sách vừa mềm mỏng vừa cứng rắn. Vai trò của quý tộc Giao Chỉ vẫn được duy trì trong thời kỳ này.
Điều đáng suy ngẫm là chế độ Lạc Hầu, Lạc Tướng thời bấy giờ có nhiều điểm tương đồng với chế độ phong kiến thời Trung Cổ ở Âu Châu sau này. Các tầng lớp quý tộc như công, hầu, bá, tử sống sung túc trên mồ hôi nước mắt của người nông nô. Tuy nhiên, điểm đặc biệt là cả quý tộc và dân chúng Giao Chỉ đều bị áp bức theo cách riêng của họ. Chính sự đồng cam cộng khổ này đã khiến họ hợp sức với nhau để đánh đuổi kẻ thù chung sau hơn một thế kỷ chịu đựng.
Viên Thứ sử đầu tiên trên đất Việt là Thạch Đái, đóng ở Lũng Khê (thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Ông không quá tốt cũng không quá tệ. Trong một thời gian,sử sách không ghi chép nhiều về việc giao dịch giữa Giao Chỉ bộ và nhà Tây Hán. Mãi đến năm Kỷ Sửu (năm Khiến Võ thứ năm, đời vua Hán Quang Vũ – nhà Đông Hán), mới có ghi chép về việc Thứ sử Giao Châu Đặng Nhượng cho sứ đem công vật về Trung Quốc.
Dưới thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, các quan cai trị Trung Quốc tại Giao Chỉ bộ không chịu thần phục (Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục…). Bang giao giữa Hán triều và Giao Chỉ bộ đứt đoạn hẳn. Sau này vua Quang Vũ trung hưng mới có sứ bộ Giao Chỉ đi lại.
Cần lưu ý rằng một số quan lại, trí thức Trung Quốc lánh nạn chính trị sang Giao Chỉ đã góp phần đáng kể trong việc mở mang văn hóa nơi đây. Một số quan lại nhà Tây Hán như Tích Quang và Nhậm Diên (không phải là Nhậm Diên), Thái thú Giao Chỉ, Cửu Chân đã tỏ được lòng chân chính với người Việt trong những năm đầu Công lịch, khi ách đô hộ mới được thiết lập.
Tích Quang sang Giao Chỉ từ đời vua Bình Vương (Tây Hán) vào khoảng năm thứ hai, thứ ba và Nhậm Diên từ năm Kiến Võ nhà Đông Hán. Họ khai hóa cho nhân dân, giúp dân hiểu biết về lễ nghĩa, luân thường, đạo lý. Họ khuyến khích nông nghiệp bằng cách hướng dẫn người dân trồng trọt, canh tác, khẩn hoang để tăng gia sản xuất. Trước kia, dân Giao Chỉ quen sống bằng nghề săn bắn, chài lưới.
Họ dạy việc lễ nghi, hiếu hỷ, đặt thành quy tắc, và điều đáng chú ý là họ thực hành lòng nhân đạo ngay từ chính bản thân mình (các lại thuộc phải san sẻ một phần lương bổng của mình để cấp đỡ dân chúng trong việc lấy vợ, lấy chồng). Qua đó, ta có thể hiểu được mức độ túng quẫn của người dân Giao Chỉ thời bấy giờ. Cần ghi nhớ rằng những công cuộc của Nhậm Diện và Tích Quang chỉ là sự tiếp nối sự nghiệp của tướng Triệu Đà trước đây. Tiếc rằng Nhậm Diện chỉ cai trị quận Cửu Chân có 4 năm rồi phải đổi đi nơi khác. (Dân ta nhớ ơn ông nên làm đền thờ và lấy tên ông để đặt cho con, có lẽ theo ý họ, nhờ có công lao nên mới có dòng họ, có con cháu).
Về sau, chế độ Tây Hán ngày càng hà khắc do chính sách trực trị được thi hành triệt để. Quý tộc và sĩ dân Giao Chỉ không chịu nổi sự bóc lột và tàn ác của đế quốc nên đã vùng dậy cùng nhau tranh đấu, chống lại kẻ xâm lăng.