Cận chiến là “công đoạn” đặc thù nhất của mọi hình thức chiến tranh cổ đại. Sau các màn dạo đầu của cung thủ, lao thủ, bộ binh và kỵ binh hai bên sẽ ập vào nhau theo đúng nghĩa đen của từ này, và tàn sát. Chính vì cận chiến rất quan trọng đến thành bại của một đội quân, người ta phát triển rất nhiều loại vũ khí để tối ưu cho việc này, nhằm đạt sát thương mức cao nhất, nhanh nhất, và gọn gàng nhất.
Có ba loại vũ khí cận chiến:
- Loại thứ nhất dùng để đập vào người đối phương, không gây chảy máu. Điển hình cho loại này là gậy.
- Loại thứ hai dùng để chém, gây ra vết thương sâu cho địch thủ. Loại này ta có đao, rìu .v.v.
- Và loại thứ ba dùng để đâm, xuyên thủng cơ thể đối phương. Có các loại như dao găm, giáo, kiếm rất thông dụng.
Những loại vũ khí này sẽ luân phiên nhau phát triển. Người ta sẽ dần dần sử dụng các loại mới thay cho những loại trước đó. Chẳng hạn khi rìu ra đời thì quân lính sẽ sử dụng chúng thay cho gậy. Khi công nghệ luyện kim phát triển, người ta sẽ rèn được những lưỡi kim loại bén hơn, mỏng hơn cho giáo và kiếm. Và chúng sẽ thay thế rìu trở thành loại vũ khí thông dụng trên chiến trường.
Gậy và trượng
Trượng, hay gậy, là một trong những vũ khí cổ xưa nhất. Người tiền sử dụng nhiều loại gậy khác nhau. Nhưng vì chúng bằng gỗ nên dùng được ít lâu là phải bỏ. Gậy trở nên phổ biến khắp các xã hội cổ đại, dùng trong cả việc tế lễ và chiến tranh.
Gậy cổ đại sẽ được thiết kế sao cho đầu tấn công sẽ to và nặng hơn đầu tay cầm. Nhưng phải tính toán làm sao đó để sự chênh lệch về độ dày hai đầu không ảnh hưởng đến sức chiến đấu.
Người vùng Trung Đông nghĩ ra cách gắn thêm các loại vật liệu nặng khác vào đầu tấn công đến một độ nặng mà họ cho là thích hợp, lúc đó cây gậy sẽ được gọi là “trượng” (dịch từ ‘mace‘ trong tiếng Anh)
Trượng có hai phần: tay cầm bằng gỗ và một vật nặng bằng kim loại hoặc đá gắn vào đầu bên kia. Vật nặng này chế theo hình cái bánh rán – hình tròn có cái lỗ ở giữa. Người ta sẽ nhét cây gậy vào trong cái lỗ này, buộc chặt lại để vật nặng không bị văng đi khi quật vào đối tượng. Một số loại đầu trượng còn được khắc hoạ tiết hoa văn với mục đích trang trí.
Một số cộng đồng thích dùng trượng hơn các loại vũ khí khác. Người Ai Cập và các nước hàng xóm xem trượng là vũ khí quan trọng nhất. Và đương nhiên trượng pháp của họ rất điêu luyện.
Người Mesopotamia, cách xa Ai Cập về hướng đông, thì lại không chuộng trượng. Binh lính của các nước vùng này luôn đội mũ khi ra trận. Loại mũ này tỏ ra rất hiệu quả khi đối chọi với các loại trượng, gậy khác nhau. Vậy nên người Mesopotamia bỏ hẳn gậy chuyển qua dùng giáo và rìu. Hai món này có thể xuyên thủng cơ thể, hoặc chặt bay đầu kẻ địch.
Không ngạc nhiên gì khi người Ai Cập tiếp tục dùng trượng suốt một quãng thời gian dài. Một mặt họ cố gắng cải tiến cây trượng bằng cách đập dẹp đầu tấn công và mài bén nó. Tuy làm vậy có thể giúp cây trượng có khả năng cắt vào da thịt địch thủ, nhưng đem ra đấu với mũ bảo vệ và áo giáp thì chắc chắn thua. Vậy nên cuối cùng thì những người Ai Cập bảo thủ cũng phải vĩnh viễn từ bỏ cây trượng của mình.
Nhưng kỳ lạ là món trượng tưởng đã bị quên lãng này 4000 năm sau lại hồi sinh, trong thời Trung Cổ tại châu Âu và châu Á. Đây là thời gian thường xuyên xảy ra các trận giáp chiến giữa bộ binh hạng nặng mặc giáp của các bên đối địch. Để đáp ứng nhu cầu của loại hình chiến tranh mới, trượng được cải tiến về hình dạng và độ tàn ác: người ta gắn vào đầu trượng một chùm kim loại vót nhọn. Những mũi kim loại này nhằm mục đích công phá áo giáp sắt của kẻ địch và đả thương họ.
Tuy trượng, gậy trong gần 5000 năm ít khi được dùng như vũ khí chính trên sa trường, nhưng nó lại là biểu tượng cho quyền lực. Trong những bức hoạ Ai Cập cổ, nhà vua hoặc các vị thần luôn cầm trên tay một cây trượng biểu trưng cho sự chiến thắng. Trượng luôn là vật đặc trưng cho quyền hành và sức mạnh. Biểu tượng này tồn tại cho tới thời hiện đại. Chúng ta thấy, vương trượng của nhà vua hay cây batong của các nguyên soái thật ra cũng chỉ là phiên bản hiện đại của loại vũ khí cổ xưa này.
Rìu chiến
Trượng dần dần mất đi vị trí trên sa trường vì nó không thể xuyên thủng mũ và giáp của quân địch. Vậy nên người ta chế ra một thứ vũ khí ‘chém cũng được và đập cũng được’, có khả năng công phá mũ và áo giáp đối phương. Đó chính là rìu. Quan sát kỹ thì ta có thấy rìu là một phiên bản cải tiến của trượng bằng cách gắn lưỡi kim loại sắc bén cho nó. Thời ấy có hai loại rìu thông dụng. Một loại bản lớn, lưỡi bầu, dùng để tấn công những đối tượng không mặc giáp bảo hộ, ta tạm gọi là rìu chém. Một loại dài, lưỡi nhọn, dùng xuyên thấu mũ và áo giáp đối phương, ta tạm gọi là rìu phá giáp.
Bài toán khó nhất đặt ra cho các bác thợ rèn là làm sao gắn chắc được cái lưỡi rìu kim loại vào cán gỗ. Quy trình gắn lưỡi rìu này có tên gọi là “tra cán”. Có hai phương pháp tra cán thông dụng. Cách thứ nhất là thao tác ở phần cán. Người ta sử dụng một thứ gọi là ‘chuôi’ gắn vào cán rìu. Trên cái chuôi này có khoan lỗ để nhét lưỡi rìu vào, rồi cố định bằng đinh tán. (Mấy con dao làm bếp chế tác theo kiểu này)
Cách ‘tra cán’ thứ hai là thao tác trên phần lưỡi. Họ sử dụng một công cụ gọi là “đế” (socket). Đó là một cái ống bằng kim loại gắn vào lưỡi rìu. Sau đó tra cán vào trong cái đế này rồi cố định bằng đinh tán đóng xuyên qua. Nếu bạn không hình dung cái ‘đế’ này nó thế nào thì cứ lấy một cái xẻng mà quan sát.
Mỗi phương pháp đều có ưu điểm riêng. Ưu điểm chính của đế là nó chắc và bền, nên người ta mới sử dụng cho những vật dụng to nặng như là cuốc, xẻng. Với đặc tính bền chắc này thì thợ rèn sẽ áp dụng phương pháp tra cán bằng đế cho loại rìu dùng phá giáp. Vì khi nhắm mục đích này quân sĩ phải ra đòn mạnh hết sức có thể. Họ cần lưỡi rìu phải thật chắc.
Phương pháp dùng chuôi cũng có ưu điểm của nó. Nhanh, dễ, và rẻ hơn kiểu kia. Ngoài ra nó còn nhẹ vì chuôi đỡ tốn sắt hơn loại đế cồng kềnh. Có lẽ vì lý do này nên là những loại rìu bản rộng dùng bổ trực tiếp vào da thịt kẻ địch được chế tác bằng phương pháp chuôi.
Tuy rìu dùng chuôi ra đời trước, nhưng loại dùng đế cũng xuất hiện ít lâu sau đó. Năm 2500 TCN, các nền văn minh dọc vùng Mesopotamia (Irắc ngày nay) đã phát triển các loại rìu dùng đế, có lẽ là để cân những loại giáp trụ đang được dùng phổ biến hồi ấy.
Như bình thường, Ai Cập bị bỏ lại phía sau. Người Ai Cập cùng những người hàng xóm của mình không bao giờ mặc giáp, nên cũng chẳng cần rìu chiến làm gì. Mãi về sau này khi Ai Cập phải đối mặt với những đạo quân mặc giáp thì họ mới vội vã chế tạo những lưỡi rìu dùng chuôi để đâm thâu kẻ địch.
Càng về sau thì rìu phá giáp càng trở nên quan trọng, còn rìu chém, loại dùng chuôi, càng bị lép vế. Lý do là vì việc mặc giáp đội mũ đã trở thành bình thường trong thế giới cổ đại, và một lý do khác quan trọng hơn đó là sự phát triển của kiếm. So với rìu chém thì kiếm là thứ vũ khí hiệu quả hơn hẳn trong việc xiên que và cắt thịt kẻ thù. Và món binh khí này nhanh chóng trở thành ‘hàng nóng’ trang bị trong những đội quân hùng mạnh nhất thời cổ đại.
Trên thực tế thì đế quốc Roma chưa bao giờ xài rìu. Còn bộ lạc kém văn minh hơn ở bắc Âu và châu Á thì vấn tiếp tục chế tạo và sử dụng rìu chiến kể cả sau khi La Mã sụp đổ và tan biến cùng với những binh đoàn của nó.
Rìu chiến là một trong những loại binh khí cơ động và hiệu quả nhất của thời cổ đại. Ngoài những loại rìu phá giáp, chặt thịt tiêu chuẩn ra thì còn có những loại ‘XXL’ siêu to và nặng dành cho những chiến binh to khoẻ. Khi dùng loại rìu này phải cần tới cả hai tay mới thao tác được. Ngoài ra còn có những loại rìu mini được thiết kế chuyên dùng để phóng vào kẻ địch. Trên thực tế thì loại rìu như vậy không được xếp vào hạng binh khí cận chiến. Chính xác hơn thì ta có thể gọi nó là ‘tên lửa tầm trung’.
Cũng như trượng, rìu chiến là một thứ binh khí lễ nghi quan trọng. Loại rìu Đan Mạch bản rộng là biểu tượng cho hoàng gia Anh suốt thời Trung Cổ. Trước đó thì người La Mã dùng hình ảnh cái rìu có hai sợi dây thừng cuốn quanh cán làm biểu tượng cho sự cai trị. Các loại vũ khí lễ nghi này được sử dụng trong những nghi thức hoàng gia và là nghi trượng dẫn đường khi các quan chức cao cấp đi lại. Rìu biểu tượng của La Mã được gọi là fasces. Nó còn được dùng làm logo cho một phong trào chính trị xuất hiện tại châu Âu thập niên 1930. Những người của phong trào này tự gọi mình là “fascist” (phát xít) và dùng fasces làm biểu tượng cho mình.
Sự phát triển của kiếm
Những trận giáp chiến thời cổ đại thường được minh hoạ bằng một trận đấu kiếm tay đôi giữa hai cao thủ kiếm pháp. Nhưng thật ra giai đoạn đầu của thời cổ đại kiếm chưa hề xuất hiện. Kiếm chỉ bước vào vũ đài lịch sử cách đây khoảng 3000 năm, rất lâu sau trượng, rìu chiến, cung tên, giáp trụ, và giáp là những ‘trang bị cơ bản’ của binh lính cổ đại. Hình ảnh một kiếm sĩ tung hoành trong đám loạn quân để giải cứu một công nương nào đó không phải vẽ thời cổ đại, nhưng thuộc về thời Trung Đại, rất lâu sau khi các nền văn minh Hy Lạp, La Mã, Lưỡng Hà, và Ai Cập đã biến mất.
Có hai lý do tại sao trong bộ sưu tập vũ khí cổ đại lại không có kiếm. Thứ nhất là vì kim loại thời cổ đại còn rất mềm và yếu, không làm kiếm được. Thử tượng một lưỡi kiếm bằng đồng, mỏng, dài thì làm sao đủ cứng để đâm vào áo giáp. Vậy nên những loại vũ khí thời cổ đại phải chịu giới hạn lớn về độ mỏng và độ bền. Nếu vượt qua những giới hạn ấy thì chúng sẽ bị cong hoặc gãy.
Lý do thứ hai là các xưởng rèn sơ khai không biết cách rèn kiếm. Các loại vũ khí cổ nhất chỉ bao gồm một cái cán dài bằng gỗ, đầu gắn một lưỡi chém nhỏ. Còn kiếm thì hầu như hoàn toàn bằng kim loại. Chỉ có phần tay cầm là bằng gỗ hoặc xương.
Tổ tiên của kiếm là dao găm. Dao chỉ có lưỡi dài khoảng 30cm là hết. Dao găm rất phổ biến thời cổ đại cho tới mãi năm 1500 TCN. Ngày nay chúng ta đào được rất nhiều hiện vật loại binh khí phòng thân này. Có một số con dao chế tác rất đẹp và tỉ mỉ tìm thấy trong mộ táng hoàng gia của vùng Lưỡng Hà cổ đại. Nhiều con dao làm bằng vàng ròng, có tay cầm bằng ngà voi hoặc đá quý khảm vàng ngọc tinh xảo.
Khi các thợ rèn chế tác dao nguyên khối, với lưỡi và tay cầm dính với nhau làm một, thì họ đã loại bỏ được bài toán rắc rối gắn lưỡi vào cán. Quan trọng hơn, sự phát triển của ngành luyện sắt đã mang lại cho các nghệ nhân cổ đại một thứ vật liệu đủ cứng để chế tác lưỡi kiếm mỏng, dài. Cuối cùng, các chướng ngại kỹ thuật đã được đả thông, dọn đường cho sự phát triển của kiếm sau này.
Trường kiếm và yêu đao
Tuy dao găm lưỡi ngắn đâm rất ngọt, nhưng người ta cần một thứ vũ khí có lưỡi dài hơn để vừa chém vừa đâm được. Có hai loại kiếm tiêu chuẩn được phát triển theo hai cách khác nhau. Loại kiếm thứ nhất gọi là ‘trường kiếm’, dùng để đâm bằng động tác phóng kiếm. Trường kiếm dài, mỏng, nhẹ, có mũi nhọn. Phần nặng của nó nằm gần chuôi để kiếm sĩ có thể kiểm soát được mũi kiếm khi xuất chiêu đánh kẻ địch.
Loại kiếm thứ hai gọi là ‘đao’, dùng để chém bằng thao tác ‘vút tay’. Đao có lưỡi nặng và dày, cạnh sắc bén. Phần nặng nhất của đao không phải tay cầm mà là sống đao, để tăng lực chém cho nó. Trái với trường kiế, lưỡi đao thường được làm cong, vì với hình dạng ấy nó sẽ tạo được vết thương dài hơn. Trường kiếm thì chỉ có một hình dạng tiêu chuẩn: dài, thẳng, và hẹp. Còn đao thì nhiều mẫu mã hơn, có cong có thẳng, có dài có ngắn, một lưỡi hoặc hai lưỡi.
Hai loại binh khí này cũng chìm nổi tuỳ theo các giai đoạn khác nhau thời cổ đại. Các đạo quân cần những thứ vũ khí vừa chém vừa đâm được, nhưng yêu đao hay trường kiếm chỉ đáp ứng được một trong hai mục đích trên. Nếu đạo quân nào dùng rìu chiến để chém, thì thường họ sẽ chọn trường kiếm để đâm. Mặt khác, nếu họ dùng giáo để đâm thì sẽ chọn đao để chém.
Kiếm “hai trong một”
Một trong những loại kiếm tối ưu và quan trọng nhất được sản xuất lần đầu tiên tại đông Âu, khu vực ngày nay thuộc Hungary. Loại kiếm này thẳng, hai lưỡi, đủ nặng để chém và đủ nhọn để đâm. Loại kiếm ‘hai trong một’ này rất được người Hy Lạp ưa chuộng. Họ mang theo chúng trong hành trình chinh phạt và giao thương của mình.
Loại kiếm 2 trong 1 này đã biến mất sau năm 1100 TCN, nhưng người La Mã lại sáng chế ra một phiên bản còn hiệu quả hơn nữa dùng cho hàng trăm năm sau. Phiên bản mới này có tên là glaudius, hay ‘kiếm Tây Ban Nha’ (vì nó làm bằng sắt khai thác ở Tây Ban Nha). Đây là binh khí tiêu chuẩn trong các binh đoàn La Mã. Kiếm Glaudius dài khoảng 60cm, hai lưỡi, thẳng, có mũi nhọn. Tuy nhẹ nhưng nó cân đối đến mức có thể dùng như đao. Khi xuất kiếm, binh sĩ La Mã có thể dùng nó để rạch toang áo giáp kẻ địch. Đồng thời, với trọng lượng nhẹ, lưỡi kiếm thẳng, và có mũi nhọn Glaudius có thể xuyên thấu bất kỳ đối tượng nào một cách hiệu quả.
Có thể bạn đã từng nghe những cao thủ dùng kiếm thời đế quốc La Mã được mệnh danh là Gladiator. Họ là những nô lệ, tù binh chiến tranh, và các loại tù nhân khác. Họ được trang bị kiếm glaudius để chiến đấu một mất một còn với thú dữ trong những sân vận động rộng lớn với đám đông theo dõi. Mục đích chỉ là để giải trí cho khán giả, những công dân Rome. (Học tiếng Anh với nhóm dịch Lightway: Những từ thường bị phát âm sai trong tiếng Anh)
Kiếm bầu của phương đông
Trong khi các nước phương Tây đang miệt mài cải tiến các loại kiếm của mình thì ở phương Đông người ta đã là chuyên gia về một thứ binh khí gọi là ‘kiếm bầu’, loại vũ khí chết chóc nhất thời cổ đại. Tổ tiên của kiếm bầu là ‘kiếm lưỡi liềm’, rất phổ biến trong các đạo quân Trung Đông cổ đại khoảng năm 2000-1000 TCN.
Lưỡi liềm là một thứ vật dụng cán gỗ, có lưỡi cong như trăng lưỡi liềm được nông dân sử dụng để thu hoạch lúa. Phần lưỡi sắc của nằm ở mặt trong của nó để người ta vòng cái liềm qua bó lúa mà cắt.
Nhưng kiếm lưỡi liềm thì được mài bén cạnh ngoài, gắn vào một cái cán dài sao cho lưỡi kiếm cong về phía người sử dụng. Đây là một thứ binh khí rất linh hoạt, cứ vung bừa lên là được.
Ban đầu, cán của kiếm lưỡi liềm dài gấp đôi lưỡi, nhưng theo thời gian thì cái lưỡi ngày càng dài hơn và nặng hơn, còn cán thì ngắn lại. Cuối cùng, kiếm lưỡi liềm tiến hoá thành kiếm bầu mà các đạo quân phương Đông sử dụng với sức sát thương rất cao. Ví dụ, người Hy Lạp ngoài giáo dùng để đâm thì họ xài một loại kiếm bầu tên là kopis để chém. Các bức hoạ thời Hy Lạp cổ đại cho thấy binh sĩ Hy Lạp sử dụng kopis, họ vung lên quá đầu rồi xả xuống địch nhân. Các loại kiếm bầu được sử dụng phổ biến ở phương Đông cho tới tận thời hiện đại, và là vũ khí ưa chuộng của kỵ binh Nga khi họ xông pha trên các vùng sa mạc Ả Rập.
Bên trên là khái quát những loại binh khí phổ biến được dùng trong cận chiến thời cổ đại. Họ có vô số các loại rìu, dao, dao găm, kiếm. Tất nhiên không phải lúc nào cũng cần giáp chiến với kẻ địch. Nếu may mắn thì họ có thể tiêu diệt kẻ địch từ xa bằng những món binh khí tầm trung. Và chúng ta sẽ bàn tới loại bình khí này trong bài tiếp theo.
Giáo và lao nhìn rất giống nhau, đều có cán gỗ dài gắn mũi kim loại. Cả hai loại đều dùng giáp chiến ở tầm trung – tức là cách địch thủ từ một hai mét cho đến năm tới mười lăm mét. Với khoảng cách đó hai loại binh khí này nằm vào khoảng giữa các loại vũ khí cận chiến và những loại vũ khí tầm xa như cung, nỏ.
Khác nhau ở chỗ giáo thì dùng cầm tay để đâm đối thủ, còn lao là để phóng. Tuy nhiên về độ sắc nhọn thì hai loại này giống nhau, và khi cần thì cũng phóng giáo như thường, cũng như lấy lao đâm như giáo. Trên thực tế thì các nhà khảo cổ mỗi khi đào được một mũi nhọn thì họ không chắc là của lao hay của giáo. Rõ ràng thời cổ đại có những loại vũ khí dùng cho cả hai mục đích này.
Nhưng nói chung thì giáo và lao được chế tác khác nhau cho mục đích khác nhau. Giáo nặng hơn, trọng tâm nằm gần mũi. Lao thì ngược lại, nhẹ hơn, trọng tâm nằm giữa cán để cân bằng.
Những loại vũ khí này thuộc vào hàng cổ xưa nhất, và tổ tiên của chúng chỉ là một cây gây vót nhọn. Cán gỗ dài, thẳng, vót nhọn (gia cố bằng lửa) một thời là vũ khí căn bản của con người. Hầu như mọi bộ lạc, bất kể trình độ công nghệ tới đâu, đều dùng gậy vót nhọn để đi săn, chiến đấu, đào bới v.v. Ngay trong thế giới cổ đại thì gậy vót nhọn có lưỡi gia cố bằng lửa đã được dùng trong chiến tranh. Người La Mã viết về những cuộc chạm trán với các bộ lạc Giécmanh sử dụng các loại vũ khí như vậy. Từ “giáo” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “cây” hay “cành cây”.
Lính dùng giáo trong các đạo quân cổ đại
Trong một khoảng thời gian rất lâu thì giáo là loại vũ khí tiêu chuẩn của binh lính thời cổ đại, y như súng đối với binh lính hiện đại. Cuối thời cổ đại thì công nghệ chế tác kim loại đã khá tiến bộ, kiếm mới dần thay thế, nhưng ngay cả khi đó thì giáo vẫn chiếm vị trị chủ lực. Ngay cả những con dao găm đầu tiên và những lưỡi kiếm sớm nhất được chế tác thì giáo vẫn là loại vũ khí ưa chuộng của quân lính, vì nó có nhiều lợi thế hơn kiếm.
Một điểm khác, giáo rẻ hơn và dễ sản xuất hơn. Đầu giáo cần ít sắt hơn nhiều so với kiếm, và chúng nhỏ hơn, dễ chế tác hơn. Đồng thời cán gỗ nặng tạo sức tấn công mạnh; một ngọn giáo tốt có thể xuyên thủng cả khiên hoặc áo giáp. Cuối cùng, giáo thời cổ đại khá dài – thường là hơn chiều cao một người đàn ông – và vì thế có thể dùng tấn công đối thủ từ xa. Vũ khí cận chiến thường chỉ dùng như phương án cuối cùng khi không thể đả thương hoặc giết kẻ địch bằng giáo.
Giáo xuất hiện trong các lăng mộ cổ xưa nhất, như trong một bức bích họa tả cảnh đi săn có niên đại năm 3000 TCN tại Ai Cập. Một phế tích tại Mesopotamia, cũng khoảng 3000 năm tCN, tả cảnh một thợ săn đâm giáo vào một con sư tử. Săn sư tử được xem là một môn thể thao mạo hiểm của giới quý tộc tại vùng Trung Đông cổ đại, và người Hy Lạp cổ đại dường như cũng vậy. Một con dao găm tìm thấy trong một ngôi mộ Hy Lạp có niên đại thời đồ đồng khắc hình đi săn sư tử bằng giáo. Nếu các nghệ sĩ cổ đại không cường điệu độ dài của giáo trong các tác phẩm của họ thì rõ ràng những ngọn giáo này dài tới hơn 4 mét!
Người Hy Lạp cổ đại phát triển kỹ thuật dùng giáo trong chiến tranh đến mức thượng thừa. Họ có đội hình lính đánh giáo đặc biệt gọi là phalanx. Lính đánh giáo sẽ dàn một hàng ngang, đưa khiên ra chắn phía trước, rồi phóng giáo ra. Họ hình thành một kiểu bức tường sống rồi từ trong túa giáo ra ngoài. Khi có lệnh tấn công, quân phalanx sẽ càn qua chiến trường, xông thẳng vào hàng ngũ quân địch.
Mấu chốt thành công của quân phalax không chỉ là sự dũng cảm mà còn là lòng tin lẫn nhau. Sự an toàn của mỗi người lính phụ thuộc vào đồng đội của họ. Nếu tất cả đều giữ vững vị trí khi tấn công thì tất cả đều an toàn, nhưng nếu có đứa nào bỏ hàng ngũ thì đội hình phalax sẽ có khoảng trống dễ dàng bị quân địch tấn công. Quân dùng giáo được huấn luyện chuyên nghiệp, tấn công bằng đội hình phalanx, gần như là không ai cản nổi.
Hy Lạp cổ đại đánh giá giáo rất cao, và họ xem đó là vũ khí quan trọng nhất trong hơn một ngàn năm, từ thời đồ đồng đến thời Alexander Đại đế. Alexander dựng lên một đế quốc vĩ đại tại Trung Đông khoảng 300 năm trước Chúa Giêsu, và những ngọn giáo mà đạo quân viễn chinh của ông sử dụng thực sự hảo hạng. Những ngọn giáo đồ sộ ấy dài tới bảy mét. Đội hình phalax trong quân của Alexander sẽ dàn nhiều hàng, hàng nọ đứng sau hàng kia. Giáo của họ dài tới nỗi mũi giáo của hàng thứ tư và thứ năm vươn tới cả hàng đầu tiên.
Quân La Mã sử dụng chiến thuật này cùng với các kỹ thuật khác họ học được từ người Hy Lạp, nhưng ít thành công hơn so với ‘sư phụ’ của họ. Khi một nhóm các bộ lạc bán khai từ vùng tây bắc châu Âu xâm chiếm lãnh thổ gần Rome năm 370 TCN thì người La Mã đã khám phá ra rằng những ngọn giáo nặng và đội hình Phalanx cồng kềnh sẽ không thích hợp trên địa hình đồi núi quê hương Italia của họ, và cũng không thích hợp chiến đấu với quân đội hạng nhẹ, cơ động của các bộ lạc. Vì thế nên La Mã tổ chức lại quân đội theo hướng nhanh hơn, linh hoạt hơn, và bắt đầu sử dụng kiếm làm vũ khí chính. Nhưng ngay cả khi đó thì nỗi nhục lớn nhất với một người lính La Mã là để mất cây giáo của mình trên sa trường, và loại giáo ngắn, lưỡi rộng tiếp tục là một phần quan trọng trong trang bị vũ khí cho lính La Mã.
Lao
Tuy lao chưa bao giờ được xem là loại vũ khí quan trọng nhất trong quân đội cổ đại, và cũng không sánh được với giáo, nhưng loại vũ khí thú vị này có thể làm được những thứ mà không loại nào làm được. Ví dụ cung tên không thể bắn được những mũi tên nặng, dù chỉ bằng nửa trọng lượng của lao. Lao có thể xuyên thủng nhiều thứ mà cung tên chỉ có thể gây trầy xước. Giáo và rìu chiến đều không có đủ trọng lượng và sự cân bằng cần thiết để phóng, và cũng không phóng xa và chính xác được như lao. Vì thế lao chính là thứ lấp vào khoảng trống giữa giáo và cung tên.
Lính phóng lao được đào tạo đặc biệt, và thường chiến đấu cặp hông lính bắn đá và lính bắn cung, những đơn vị tác chiến tầm xa trong quân đội. Mỗi lính phóng lao sẽ mang theo nhiều cây lao để phóng bất cứ khi nào thấy có cơ hội. Lao cũng được chở theo trên chiến xa (hạng nhẹ, hạng nặng) trong một cái ống đựng lao gọi là quiver. Về sau, khi kỵ binh trở thành đơn vị tiêu chuẩn trong quân đội thì lao lại tìm được một vị trí khác trong quân trang cơ bản của đơn vị này.
Một trong những thực tế thú vị về lịch sử của lao đó là mối quan hệ của nó với cung tên. Khi cung và tên vẫn còn hiếm hoi trong chiến tranh thì giáo đặc biệt quan trọng. Nhưng khi cung được cải tiến và có thể bắn được những mũi tên nặng với lực bắn lớn hơn thì lao dần mất đi sự quan trọng của nó.
Có lẽ cây lao nổi tiếng nhất trong lịch sử cổ đại là của lính La Mã. Tuy lính La mã có những đơn vị cung thủ, và bộ binh với trang bị gươm và khiên không phải mang theo cung. Vì thế nên lao là thứ vũ khí duy nhất họ có thể dùng để phóng, tiêu diệt kẻ địch từ xa. Lao La Mã có đầu dài, hẹp, và đế dài, cán gỗ có chiều dài trung bình. Lưỡi dài khoảng 75cm, và đế 75cm nữa. Đầu lưỡi lao có một lưỡi khác nhỏ hơn nhiều, khoảng 10cm, gắn vào lưỡi lớn bằng một thanh sắt mềm. Khi mũi lao này cắm vào nạn nhân thì thanh sắt này sẽ uốn cong xoáy lưỡi lao nhỏ vào trong da thịt khiến cho nạn nhân không thể rút cây lao ra. Khi đã ‘xử lý’ địch thủ bằng lưỡi lao này thành công thì lính La Mã chỉ việc kết liễu đối phương bằng kiếm là xong.
Lao có tầm tấn công lớn nhất và lực đánh lớn nhất trong số các loại binh khí phóng xa. Nhưng tất nhiên có những giới hạn về tốc độ và lực phụ thuộc vào sức của người phóng. Trong khi đó các loại vũ khí bắn xa thì lại là những loại máy móc có khả năng hội tụ sức lực và bất ngờ phóng ra, tạo được tộc độ nhanh hơn nhiều so với ném tay thủ công.
Trong bài tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu về những loại vũ khí bắn xa mà binh lính thời cổ đại mang theo bên mình. Những loại vũ khí này ngày càng trở nên mạnh mẽ, phức tạp, và quan trong hơn trong chiến tranh thời cổ đại.