Ngày 20 tháng 9 năm 1592, một cuốn sách nhỏ kỳ lạ nhưng vô cùng quan trọng được ghi vào Sổ đăng ký Xuất bản ở London. Đó là tập Greene’s Groatsworth of Wit, bought with a million of Repentance (tạm dịch: Chút khôn ngoan của Greene, đổi bằng muôn vàn hối hận), được chắp vá từ bản thảo còn lại của nhà soạn kịch Robert Greene (1558–1592) vừa qua đời. Tác phẩm kể về Roberto, một kẻ học rộng nhưng vô tích sự, sau khi tìm cách lừa anh trai cùng một kỹ nữ, cuối cùng phải kiếm sống bằng nghề viết kịch.
Đa phần nội dung chẳng có gì đặc biệt. Nhưng đến cuối, người kể chuyện bất ngờ tuôn ra một tràng công kích giới diễn viên London – bọn giả dối, kiêu ngạo, đã làm khổ ông ta không ít. Greene cảnh báo những ai “đem trí tuệ ra làm trò diễn” nên tránh xa họ, đặc biệt là một kẻ:
“Đừng tin chúng: vì có một tên quạ mới nổi, khoác lông của chúng ta, mang trái tim hổ trong da diễn viên, tưởng rằng mình có thể làm vần điệu oai hùng chẳng kém ai; lại còn đóng vai kẻ làm được mọi thứ, tự cho mình là Shake-scene duy nhất trong thiên hạ.”
Hầu hết giới nghiên cứu đều đồng ý đây là ám chỉ William Shakespeare. Không chỉ vì cách chơi chữ với tên ông, mà còn vì cụm “trái tim hổ” nhại lại một câu trong vở Henry VI, phần 3. Ý nghĩa lời buộc tội này vẫn còn tranh cãi; nhưng rõ ràng Greene khó chịu vì Shakespeare – lúc đó chỉ là một diễn viên “tay ngang” – lại tự cho mình quyền chen vào hàng ngũ soạn kịch, bắt chước văn phong của những người có học như Greene, thậm chí còn vay mượn câu chữ của họ. Nghiên cứu gần đây cho thấy cáo buộc ấy không hẳn là vô căn cứ.
Shakespeare trước năm 1592: ông ở đâu?
Điều đáng nói là: đây là bằng chứng sớm nhất còn lại về Shakespeare với tư cách nhà viết kịch. Nhưng chính vì thế, câu hỏi lại càng bức bối: trước năm 1592, ông đã làm gì?
Câu trả lời vô cùng mờ mịt. Manh mối cuối cùng trước đó là việc liên quan đến cặp song sinh Hamnet và Judith. Ta biết chắc ông có mặt ở Stratford tháng 5 năm 1584, khi hai con được hoài thai; nhiều khả năng ông cũng dự lễ rửa tội ngày 2 tháng 2 năm 1585. Sau đó, Shakespeare gần như biến mất khỏi hồ sơ tư liệu. Ngoại lệ duy nhất là một vụ kiện năm 1588 do cha ông đứng tên tại Tòa án Tối cao. Đơn kiện do luật sư gia đình soạn, nhưng học giả Jonathan Bate cho rằng Shakespeare – tên ông xuất hiện trong hồ sơ – có thể đã trực tiếp chỉ đạo luật sư ở London. Dẫu vậy, tất cả chỉ là suy đoán. Từ 1585 đến 1592, tức bảy năm trời, ta hoàn toàn không nắm được Shakespeare ở đâu, làm gì.
Thực ra điều này không lạ. Tiểu sử hầu hết nhân vật thời cận đại đều lỗ chỗ khoảng trống. Tuổi trẻ khi ấy thường ít để lại dấu tích pháp lý. Ngay cả thiên tài cũng khó truy vết. Christopher Marlowe (1564–1593), bạn đồng niên của Shakespeare, có lẽ đã trình diễn vở đầu tiên vào 1587, nhưng ngoài hồ sơ học vấn thì gần như chẳng biết gì về tuổi trẻ ông. Nhà sử Rowse từng nói: điều đáng ngạc nhiên không phải là ta biết ít về Shakespeare, mà là ta biết được chút gì về ông.
Dẫu vậy, sự mờ mịt ấy vẫn khiến người ta tò mò. Làm sao từ một chàng trai mới cưới, con của người làm găng tay ở Stratford, ông lại bước lên sân khấu London? Điều gì khiến ông rời Warwickshire để đến thủ đô? Không học đại học như Greene hay Marlowe, cũng chẳng có chỗ dựa quyền thế, lối đi vào giới văn chương của Shakespeare không hề rõ ràng. Thế mà ông đã thành công. Câu hỏi đặt ra: bằng cách nào Shakespeare trở thành Shakespeare?
Những giả thuyết: kẻ trộm, kẻ lữ hành… hay thầy giáo?
Có rất nhiều giả thuyết, phần lớn dựa vào giai thoại. Một câu chuyện thịnh hành kể rằng ông từng săn trộm hươu trong điền trang Charlecote Park của Sir Thomas Lucy, rồi phải trốn lên London để thoát tội. Học giả thế kỷ 18 Edmond Malone lại cho rằng ông từng là thư ký pháp luật, ngày ngày soạn đơn từ, giấy tờ – nhưng tất cả đều “bốc hơi”. Một giả thuyết khác, dựa trên việc gán nhầm một bài thơ, khẳng định ông từng sang Ý – nơi sau này xuất hiện trong rất nhiều vở kịch của ông.
Đa phần những điều này thiếu căn cứ. Tuy nhiên, cũng có giả thuyết ít nhiều hợp lý hơn. Nhà sưu tầm cổ vật John Aubrey (1626–1697) ghi trong tập Brief Lives (1680) rằng theo William Beeston – một nhà quản lý sân khấu, con trai của Christopher Beeston, người từng theo học đoàn kịch của Shakespeare – thì Shakespeare “thuở trẻ từng là thầy giáo ở nông thôn”.
Khả năng này không hoàn toàn vô lý. Các vở kịch của ông đầy rẫy chi tiết về nghề dạy học. Nhưng chứng cứ mà Aubrey đưa ra lại quá yếu. Đó chỉ là chuyện “nghe kể lại từ người nghe kể lại”. Hơn nữa Aubrey vốn nổi tiếng cẩu thả trong việc ghi chép. Cùng trong trang sách ấy, ông còn viết rằng Shakespeare lên London làm diễn viên từ năm 18 tuổi. Nếu thực sự từng làm thầy giáo, lẽ nào không có học trò nào ghi nhớ và tự hào kể lại?
Thợ in?
Nếu không phải là thầy giáo, thì có lẽ giả thuyết Shakespeare có liên hệ với nghề in ở London nghe thuyết phục hơn. Học giả A. L. Rowse cho rằng bằng chứng quan trọng nhất nằm ở mối quan hệ giữa Shakespeare và Richard Field.
Gia đình Shakespeare và Field vốn là chỗ quen thân. Họ ở Stratford, chỉ cách nhau vài con phố; cha của hai bên lại làm nghề có liên quan – một người thuộc da, một người làm găng tay. Thế nhưng đến năm 1589, Richard Field đã làm chủ một xưởng in ở Blackfriars, vốn nổi tiếng là một trong những nhà in tinh hoa bậc nhất London. Sản phẩm của ông nổi bật bởi sự tinh tế: từ các luận thuyết tiếng Pháp, ông in Nghệ thuật thơ ca Anh của George Puttenham, bản dịch Biến hình của Ovid, và Cuộc đời các nhân vật trứ danh của Plutarch qua bản dịch của Sir Thomas North – tất cả sau này đều trở thành nguồn tư liệu then chốt cho Shakespeare. Quan trọng nhất, Field chính là người đã mở đầu sự nghiệp văn chương cho Shakespeare: năm 1593, ông in Venus and Adonis – có lẽ là ấn phẩm đầu tay của Shakespeare – rồi tiếp đó là The Rape of Lucrece vào năm 1594.
Nếu theo Rowse mà suy, rằng mối liên hệ giữa Shakespeare và xưởng in của Field đã có từ trước khi Venus and Adonis ra đời, thì nhiều câu hỏi được giải đáp. Trước hết, điều đó lý giải tại sao Shakespeare lại có vốn học vấn uyên bác đến mức “vượt qua những tay bút trường đại học trên chính sân chơi của họ” (lời Rowse). Nó cũng cho thấy Shakespeare ban đầu định trở thành thi sĩ, chỉ sau đó mới quay sang sân khấu để mưu sinh.
Trong các vở kịch của mình, Shakespeare thực sự thể hiện sự am hiểu nghề in; thậm chí ông còn đưa Field vào vai nhỏ (dưới cái tên ẩn dụ “Richard du Champ”) trong Cymbeline. Tuy vậy, giả thuyết này vẫn bỏ ngỏ nhiều điều: tại sao Shakespeare lại có mặt ở London từ đầu? Quan hệ của ông với xưởng in Field thực sự là gì? Ông từng làm công cho Field? Hay chỉ là bạn cũ, thỉnh thoảng ghé qua, lượm lặt vài điều hữu ích? Nếu vậy, ông lấy gì để nuôi thân – và nuôi cả gia đình?
Người hầu?
Một giả thuyết khác cũng hấp dẫn không kém: Shakespeare từng làm gia nhân trong gia đình Alexander Hoghton tại Lancashire. Căn cứ của giả thuyết này là di chúc ngày 3 tháng 8 năm 1581 của Hoghton, trong đó ông dặn rằng sau khi qua đời, người hầu “William Shakeshafte” sẽ được chuyển sang phục vụ em rể, đồng thời mang theo một số nhạc cụ và y phục. Điều này gợi ý rằng “Shakeshafte” là người biểu diễn, nếu không phải diễn viên thì cũng là nhạc công. Thêm nữa, việc gia đình Hoghton theo Công giáo có thể hé lộ phần nào về xu hướng tôn giáo của Shakespeare – một chủ đề vốn gây nhiều tranh cãi.
Nhưng giả thuyết này cũng có lỗ hổng. Vấn đề lớn nhất nằm ở cái tên. Đúng là Shakespeare có nhiều cách viết khác nhau cho họ của mình, nhưng “Shakeshafte” thì khác biệt quá xa, khó thể chỉ xem là biến thể chính tả. Hơn nữa, ở Lancashire, họ Shakeshafte cũng khá phổ biến. Không quá khó để tưởng tượng rằng trong khi Shakespeare ở một nơi khác, thì có một William Shakeshafte hoàn toàn khác đang giúp vui cho gia chủ ở miền Bắc.
Bí ẩn vẫn còn đó
Vậy rốt cuộc Shakespeare đã làm gì trong những “năm tháng mất dấu”? Ông bước vào sân khấu bằng cách nào? Có phải, như đôi khi người ta đoán, ông từng gia nhập đoàn diễn Queen’s Men? Khả năng này không cao. Đoàn kịch quả thực có đi qua Stratford năm 1587, nhưng khó tin rằng họ sẽ thu nhận ngay một cậu con trai nhà làm găng tay vô danh. Nếu có, hẳn ông phải leo dần từng bậc, nhưng hoàn toàn không có chứng cứ nào cho thấy điều đó.
Sự thật là gì? Chúng ta không tài nào biết được. Trừ phi có phát hiện mới, bí ẩn này có lẽ sẽ không bao giờ được giải mã. Nhưng điều đó có quan trọng không? Giống như nhiều “mảnh ghép thất lạc” khác, sự thiếu vắng dữ liệu buộc chúng ta phải soi kỹ hơn những gì mình đang có, phải lần mò trong các vở kịch để tìm manh mối, và qua đó càng thêm thán phục thiên tài của ông. Chính vì không thể lý giải Shakespeare đã trở thành Shakespeare như thế nào, chúng ta lại càng kinh ngạc trước những gì ông đã làm được. Và đó cũng chẳng phải là điều tệ hại gì.










































