Nga vs. Ukraine

Putin đã tái tạo nước Nga như thế nào?

Soldatov và Borogan ghi lại nghịch lý trong thái độ của bạn bè họ đối với châu Âu và Hoa Kỳ.

Nguồn: Foreign Affairs

Hơn 25 năm trước, vào buổi đầu thời Vladimir Putin, tương lai chính trị của nước Nga dường như chưa định hình—hoặc ít nhất ngổn ngang những mâu thuẫn. Nhà nước nuôi dưỡng một vài tự do nhưng bóp nghẹt những tự do khác; gật đầu với dân chủ nhưng kiểm soát chặt chẽ chính trường; mở toang cửa cho chủ nghĩa tư bản thị trường tự do nhưng để các thị trường ấy bị săn mồi bởi tài phiệt, người trong cuộc và quan chức tham nhũng. Báo chí điều tra gai góc vẫn tồn tại ở mức độ nào đó, dù nhà báo phải chịu áp lực và đe dọa. Trên hết, với giá dầu tăng, mức sống đi lên và gắn kết ngày càng lớn với phương Tây, nước Nga dường như đem đến cho công dân một cuộc sống ổn thỏa, thậm chí hứa hẹn—với điều kiện là họ đứng ngoài chính trị, lĩnh vực được giao phó trọn vẹn cho nhà nước.

Điều mà nhà nước thiếu—và không phải do ngẫu nhiên—là một định hướng ý thức hệ rõ ràng. Một phần đó là thực tế chính trị. Sau năm 1991, người Nga trở thành những kẻ hoài nghi được “đào tạo”, vừa sống qua sự suy tàn rồi sụp đổ của Liên Xô; việc cưỡng bức niềm tin sẽ rất khó khăn và lợi ích mơ hồ. Họ bước vào thế kỷ XXI với những quan điểm mâu thuẫn: chủ nghĩa cộng sản là hệ thống đạo đức hay ngu xuẩn? Sự sụp đổ của Liên Xô là phút giây tự do và cơ hội hay là tai ương? Vậy thì, mượn ẩn dụ “cái lều lớn” của chính trị đảng phái Hoa Kỳ, tốt hơn là giữ cho chiếc lều đủ rộng thay vì buộc xã hội phải đối diện và quyết định xem họ nên—hoặc không nên—tin vào điều gì.

Đó cũng là vấn đề pháp lý. Điều 13 của Hiến pháp hậu Xô viết chính thức thừa nhận tính đa dạng ý thức hệ và cấm thiết lập bất kỳ “quốc giáo” tư tưởng nào. Cả Putin cũng từng nói theo nguyên tắc ấy. Như Andrei Soldatov và Irina Borogan—hai nhà báo điều tra người Nga—nhắc lại trong Our Dear Friends in Moscow, đồng nghiệp của họ đã phỏng vấn Putin vào năm 2000, những tháng đầu ông nắm quyền, và hỏi liệu nước Nga có cần một ý thức hệ mới không. Putin gạt đi: “Không thể bày ra một cách có chủ ý.” Ông nói đất nước cần “củng cố nhà nước, kinh tế và các định chế dân chủ, bao gồm cả báo chí tự do.”

Ngày nay, lời hứa ấy nghe như một ảo tưởng xa xôi. Điện Kremlin không còn giữ bất kỳ vỏ bọc dân chủ nào. Putin dường như sẽ cai trị vô thời hạn; ngay cả ở các vị trí thấp hơn trên lá phiếu, ứng viên độc lập cũng bị loại từ cửa. Báo chí tự do biến mất, cùng với nhiều quyền tự do cơ bản khác—dù từng rất hạn chế: một nút “like” sai chỗ trên mạng xã hội hay một khoản quyên góp cho quỹ bị coi là “bất hợp pháp” cũng đủ để lãnh án tù dài. Kinh tế phần lớn bị cắt rời khỏi phương Tây; việc đi lại châu Âu trở nên khó khăn, tốn kém và rắc rối. Trên hết, nhà nước đã nắm lấy ý thức hệ để tự biện minh và dựng nên câu chuyện định hướng: đế quốc và quân phiệt, bảo thủ và phản Tây phương, thấm đẫm cảm thức cũ xưa vừa uất ức vừa công chính.

Hai cuốn sách mới phác họa đường cong của biến đổi ấy, coi sự tái xuất của ý thức hệ là câu hỏi trung tâm đối với cả nhà nước lẫn công dân ở nước Nga hôm nay. Trong Our Dear Friends in Moscow, Soldatov và Borogan nhìn về thế hệ của chính họ. Họ kể câu chuyện một nhóm bạn đồng nghiệp thuở nào—những người Nga trẻ—trong suốt các năm tháng Putin tại vị đã dần dần thích nghi với hệ thống cai trị, trôi về phía các ý tưởng dân tộc chủ nghĩa và phản tự do, và cuối cùng trở thành những người ủng hộ chiến tranh của Nga ở Ukraine. Bằng cách đặt trọng tâm vào sự đổi thay giá trị của nhóm bạn ấy, hai tác giả cho thấy chiến lược có chủ đích của Putin nhằm “xây tường ngăn Nga với phương Tây” đã được chính người Nga hỗ trợ và gia cố như thế nào.

Trong Ideology and Meaning-Making Under the Putin Regime, nhà sử học kiêm khoa học chính trị người Pháp Marlene Laruelle chứng minh cách thức động lực luôn biến đổi giữa nhà nước và xã hội trở thành yếu tố then chốt của quyền lực Putin. Nỗ lực kiến tạo một ý thức hệ quốc gia–đế quốc mới của Putin, theo bà, không chỉ dựa vào các giá trị áp đặt từ trên xuống mà còn khai thác những ý tưởng, dòng tư tưởng vốn đã lưu hành trong xã hội. Gộp lại, hai cuốn sách gợi ra rằng—trái với nhận định “tùy hứng” hay “vô lý”—những ý tưởng thúc đẩy chiến tranh hiện tại của Nga ở Ukraine và xung đột rộng hơn với phương Tây là kết quả của sự tương tác dài lâu và luôn tiến hóa giữa hệ thống Putin và những con người mà nó cai trị.


Sự “phản bội” của giới trí thức

Mở đầu Our Dear Friends in Moscow, Soldatov và Borogan vừa được nhận vào Izvestia, một tờ báo từng là cơ quan ngôn luận nhà nước nhưng trở thành độc lập sau khi Liên Xô sụp đổ. Thập niên 1990, Izvestia giành được một phần tinh thần “nói thẳng nói thật”, và hai tác giả nhanh chóng bước vào một vòng tròn sôi nổi đầy đồng nghiệp, bạn bè, đối thủ, người yêu, bạn tranh luận trí tuệ. Trung tâm nhóm ấy là Petya Akopov, khi đó là phóng viên chính trị, cùng Marina—người vợ nghiện thuốc—thường tổ chức những cuộc rượu và triết luận trong căn hộ đẹp nhìn ra đại lộ Gogolevsky, con đường rợp cây giữa thủ đô. Như họ viết, phòng khách nhà Akopov—“với chiếc sofa lớn, một bàn và hai ghế dưới chiếc đèn chùm lấp lánh treo từ trần cao, cộng một chiếc ghế dài ở cửa sổ vòm”—là nơi lịch sử, chính trị, báo chí được tranh biện; khởi đầu một cuộc đối thoại nhiều năm, đổi nhịp theo quá trình nước Nga chuyển mình dưới thời Putin.

Ngay trong những năm đầu Putin nắm quyền, lòng trung thành trong nhóm bạn Moscow ấy đã bắt đầu dịch chuyển. Soldatov và Borogan, với tư cách phóng viên mảng cơ quan an ninh, bị chấn động rồi thôi thúc bởi phản ứng thô bạo của FSB—cơ quan an ninh nội địa—trước hai vụ khủng hoảng con tin kinh hoàng: nhà hát Nord-Ost ở Moscow năm 2002 và trường học Beslan năm 2004—đều có số thương vong khổng lồ và màn che đậy của chính quyền. Họ chứng kiến trong bối rối và thất vọng khi một đồng nghiệp ở Izvestia bắt đầu viết những bài được FSB “đặt hàng”, còn một người bạn khác chuyển sang làm phim tài liệu đầy thuyết âm mưu, chống phương Tây. Họ đánh dấu, như khắc vạch trên tường: “năm đó, hai người bạn của chúng tôi đã bước sang bờ bên kia.”

Chẳng bao lâu, thời kỳ độc lập tương đối ngắn ngủi của Izvestia khép lại, và đường đi của Soldatov, Borogan tách khỏi những đồng nghiệp ngày càng thuận phục. Từ bên ngoài nhìn vào, chống lại thực trạng mới dường như vô ích, thậm chí dại dột: sự nghiệp và tiền bạc đang chờ. Một tờ báo mà họ từng cộng tác “chế giễu mọi hình thức biểu tình như thú vui của mấy kẻ thất bại già nua không tìm được chỗ đứng trong ‘thực tại mới’ của Nga.” Trong khi nhảy việc từ tờ này sang tờ khác, họ lập Agentura.ru—trang điều tra về các cơ quan an ninh. “Chúng tôi giữa tuổi 30 và cảm thấy mình lạc nhịp với chính thế hệ của mình,” họ nhớ lại.

Dẫu vậy, một thời gian, hướng đi của đất nước vẫn còn mơ hồ. Năm 2008, Putin không ra tranh cử tổng thống do ràng buộc hiến pháp, nhường chỗ cho Dmitry Medvedev—được cho là ôn hòa hơn. Nhưng Putin không thật sự rút lui mà tạm “đứng lệch”, giữ ghế thủ tướng; đến cuối 2011, khi ông công bố kế hoạch trở lại Điện Kremlin và bầu cử quốc hội bị gian lận tràn lan, nước Nga bùng nổ các cuộc biểu tình lớn nhất thời hậu Xô viết. Dù thế, Putin vẫn tái nhiệm giữa những đợt đàn áp mới, còn phần đông tầng lớp trung lưu quay về đời sống, sự nghiệp, gia đình. Từ đây, ý thức hệ ló đầu sau bức tường Kremlin: Putin tự vẽ mình là người bảo vệ một bộ “giá trị Nga” mới, còn những ai phản đối bị đóng mác thoái hóa, phản Nga.

Khi chính trị Nga sụp vị, thái độ của bạn bè Soldatov và Borogan cũng chua lại. Sau biểu tình 2011, Petya Akopov kêu gọi ám sát Alexei Navalny—lãnh đạo có sức hút nhất của phong trào (người sau đó bị bắt và chết trong nhà tù Nga năm 2024). Trong một bài viết ca ngợi bước ngoặt rời “văn minh châu Âu”, Akopov cũng reo mừng “kết thúc cuộc thử nghiệm tự do”. Năm 2014, khi Nga sáp nhập Crimea và khai hỏa chiến tranh ủy nhiệm ở miền đông Ukraine, Evgeny Krutikov—biên tập chính trị từng tuyển mộ hai tác giả vào Izvestia—“đi full đế quốc”, cổ vũ “sự trở lại của ý thức hệ nhà nước trong chính sách đối ngoại”.

Đến khi Nga xâm lược Ukraine toàn diện (2/2022), Soldatov và Borogan đã rời sang London theo lời khuyên của nguồn tin an ninh, báo rằng họ gặp nguy hiểm. Nhưng với nhiều người bạn cũ của họ, chiến tranh là cơ hội. Vài tuần sau khi nổ súng, Akopov viết một bài phấn khích trên hãng tin nhà nước RIA, khẳng định “vấn đề Ukraine” đã được giải quyết. Một đồng nghiệp báo chí vốn là người theo tự do vác đàn đi “diễn văn nghệ” cho binh sĩ Nga ở vùng chiếm đóng. Một người bạn bác sĩ trở thành cổ động viên cuồng nhiệt chiến tranh. Đáng chú ý hơn cả là quỹ đạo của Olga Lyubimova—hậu duệ một gia đình sân khấu–điện ảnh Xô viết danh giá—người mà hai tác giả từng biết thời đầu Putin khi cô còn là MC truyền hình. Đến năm 2020, cô trở thành Bộ trưởng Văn hóa của Putin, và khi chiến tranh diễn ra, cô sử dụng bộ máy tuyên truyền lớn của mình đúng “nhu cầu nhà nước”: kiểm duyệt tác phẩm bị coi là bất lợi chính trị, bơm tiền nhà nước cho các câu chuyện “ái quốc” gắn với nỗ lực chiến tranh.

Khi nhìn lại nhóm bạn cũ, Soldatov và Borogan nhận ra bao nhiêu người “thông minh, hiểu biết, suy nghĩ thấu đáo” nay đã trở thành mắt xích của cỗ máy chiến tranh. Họ không chỉ ủng hộ xâm lược; họ còn chấp nhận ý thức hệ phản tự do và phản phương Tây đi kèm. “Họ không thể nói là bị Kremlin lừa dối hay tuyên truyền nhồi sọ, bởi chính họ là một phần—và là một phần tự nguyện—của sự lừa dối ấy,” hai tác giả viết.

Kết thúc Our Dear Friends in Moscow, họ ghi nhận bạn bè—và hàng triệu người Nga như họ—sống như thể chỉ là khán giả thụ động trước “những cơn bão chỉ có thể chấp nhận chứ không bao giờ thách thức.” Như các thế hệ trước dưới ách chuyên chế—từ Sa hoàng đến cộng sản—chẳng ích gì băn khoăn về nguyên nhân cơn bão. Lựa chọn thực sự chỉ là “ở ngoài chế độ—chắc chắn là kẻ thua, nạn nhân của đàn áp tất yếu” hay “ở trong và đóng vai.” Với nhóm bạn cũ ấy, “tất cả, vốn đều đầy tham vọng, đã chọn ở trong và nhập vai.”


Từ trên xuống và từ dưới lên

Với Laruelle, câu chuyện bạn bè của Soldatov và Borogan phản chiếu những lực lớn hơn định hình thời Putin. “Quan hệ giữa chế độ và xã hội Nga không chỉ đơn thuần là độc đoán,” bà viết. “Nó mang tính đồng kiến tạo, dựa trên một ‘hợp đồng xã hội’ ngầm cần được tái thương lượng liên tục.” Một điều không đổi: niềm tin của Putin vào sứ mệnh phục hồi vị thế cường quốc của Nga—“thành tố ổn định trong ngữ pháp địa–chính trị” của ông. Thay đổi nằm ở phương tiện: những ý tưởng được ông và bộ máy nhà nước tung ra để biện minh cho điều chế độ cho là cần thiết hay khôn ngoan.

Theo thời gian, nhà nước Putin vay mượn từ nhiều học thuyết tưởng như mâu thuẫn: Chính thống giáo Nga, chủ nghĩa Sa hoàng, di sản siêu cường Xô viết, chủ nghĩa dân túy, và Á–Âu luận—tư tưởng đầu thế kỷ XX coi Nga chẳng Âu cũng chẳng Á mà theo một con đường văn minh độc nhất. Sau 2022, chúng được gia cố bằng chủ nghĩa quân phiệt của các “blogger Z” và phóng viên chiến trường. Bằng cách tận dụng những dòng tư tưởng đa dạng ấy, Laruelle chỉ ra, hệ thống Putin hành xử theo tính toán và cơ hội: thay vì dựa vào một tập hợp ý tưởng chính trị cố định, chế độ có thế giới quan, sở thích, thiên hướng của riêng mình, rồi đi tìm “mảnh đất trí tuệ” và một học thuyết diễn đạt tốt hơn để nuôi dưỡng, biện minh cho chính nó.

Trong động lực ấy, ý tưởng có thể đi lên từ dưới cũng như đi xuống từ trên. Laruelle nêu trường hợp Ivan Ilyin—triết gia phản động đầu thế kỷ XX—người đem lớp áo đạo đức, thậm chí siêu hình, cho chế độ chuyên quyền và được Putin trích dẫn nhiều trong thập niên đầu cầm quyền. “Việc phổ biến tác phẩm của Ilyin bởi những người ủng hộ ông ấy rõ ràng nhắm lên trên, vào vòng tinh hoa quanh Putin, ít nhằm xuống dưới công chúng rộng hơn,” Laruelle viết. Dù Putin là người phán quyết tối hậu, ông cho phép những “doanh nhân ảnh hưởng” (entrepreneurs of influence) đưa ý tưởng của họ vào hoặc tự mình theo đuổi các dự án họ nghĩ phù hợp với nhà nước Putin. Lấy ví dụ Konstantin Malofeev—“tài phiệt Chính thống”—một người tự xưng ủng hộ quân chủ, bỏ vốn dựng đế chế truyền thông bảo thủ; hoặc nhà tư tưởng cực hữu Alexander Dugin—không hẳn là “bộ não của Putin” như người ta thường gán, mà là một kẻ cơ hội, có lúc hữu dụng cho Kremlin khi thao thao về “sứ mệnh Á–Âu” độc nhất của Nga.

Laruelle mô tả rằng, sau khi Putin trở lại ghế tổng thống năm 2012, nền tảng ý thức hệ của nhà nước được thể chế hóa rõ hơn. Mô hình hiện đại hóa kiểu phương Tây bị gạt sang một bên, nhường chỗ cho học thuyết phục thù nhấn mạnh “lập trường chống phương Tây—chống tự do, sự vĩ đại của đất nước, và tính ‘vô ngộ vĩnh cửu’ của các lãnh đạo nhà nước Nga/Xô.” Laruelle giải thích sắc sảo việc các uất ức địa–chính trị của Putin và giới an ninh–quân sự—từ “cách mạng màu” tại các nước cộng hòa hậu Xô đến việc Đông Âu được tích hợp vào các cấu trúc chính trị–quân sự phương Tây—được thăng hoa thành một nhãn quan nhà nước mới. Ngày càng nhiều, Kremlin nhìn trật tự tự do do phương Tây dẫn dắt như “vỏ bọc cho chủ nghĩa đế quốc và bá quyền quân sự của Mỹ” nhằm phá hoại Nga. Các giả định ấy đẩy Putin trở thành điều mà Laruelle gọi là “kiến trúc sư của bất ổn và hỗn loạn.”

Theo thời gian, khi Putin và hệ thống chính trị ông dựng nên già đi, nhãn quan của Nga vừa cứng nhắc hơn, vừa đa nghi âm mưu và nhuốm màu sứ mệnh. Theo Điện Kremlin, phương Tây đã phản bội các giá trị của chính nó, để Nga thành quyền lực duy nhất còn trung thực và ngay thẳng trên trường quốc tế. Laruelle gọi đó là quan niệm “Nước Nga Katechon”—một khái niệm mượn từ thần học Chính thống và được các nhà tư tưởng cực hữu như Dugin tái dụng—theo đó nước Nga có thiên chức phô trương quyền lực chủ quyềnsức mạnh quân sự để làm “người bảo hộ và phục hồi trật tự.” Trong thế giới quan ấy, xâm lược quân sự có thể được xem là cần thiết, thậm chí đức hạnh—dù là khi Nga sáp nhập Crimea hay khi mở chiến dịch không kích năm 2015 để chống lưng cho độc tài Bashar al-Assad tại Syria. Như Laruelle lưu ý, Nga bắt đầu kết hợp “Chính thống giáo như lá chắn tinh thầnvũ khí hạt nhân như lá chắn vật chất”, một sự kết hợp đã đẩy Putin đến chiến tranh toàn diện ở Ukraine và giúp ông dựng một lập luận hùng hồn rằng cuộc chiến ấy là cần thiếtchính đáng.

Chiến tranh ở Ukraine, theo Laruelle, đã kết tinh ý thức hệ của nhà nước Putin. Ngoài việc “tái kích hoạt” chủ nghĩa đế quốc Nga, nó còn sắp xếp các ý tưởng chính trị rời rạc nền tảng của hệ thống thành một cuộc đấumột lý tưởng dễ đọc, thậm chí hiện sinh. Ba động cơ dường như nhập một—rất tiện cho Điện Kremlin: (1) thành công trên chiến trường của Nga, hay ít nhất tránh thất bại, nhục nhã; (2) an toàn–an ninh cho công dân Nga, những người—dù nghĩ sao về căn nguyên xung đột—cũng sợ thua trận; và (3) an toàn quyền lực của Putin. Laruelle liệt kê các thành tố của khái niệm đế quốc mới: “chiếu tỏa nhà nước ra bên ngoài, ngôn ngữ kiến quốc dân tộc, an ninh hóa chế độ, và tự hình dung của Putin như một nhà cai trị mà vai trò lịch sử sẽ không bị thế hệ sau đặt dấu hỏi.”

Song song, Nga đã có phần may mắn—trong nước và ở phương Nam toàn cầu—khi bán câu chuyện chiến tranh như điều ngược lại: một cuộc chiến tranh giải phóng, hướng đến phi thực dân hóa. Các nước như Brazil, Ấn Độ, Nam Phi có thể vừa ghê tởm hành động của Nga, vừa—như Laruelle ghi nhận—coi chúng là “hệ quả” của “sự thống trị của phương Tây.” Việc Điện Kremlin truyền bá khung diễn giải này hẳn mang tính toán và hoài nghi, nhưng cũng phản ánh một phần nhãn quan chân thành. “Nếu khát vọng địa vị của Nga không thể đạt được bằng hòa nhập với phương Tây theo điều kiện riêng,” bà viết, thì “đứng vào thế giới phi phương Tây để thay đổi trật tự quốc tế có vẻ là chiến lược hứa hẹn nhất.”

Dẫu chiến tranh dẫn đến một nhà nước củng cố với biểu đạt ý thức hệ rõ ràng, điều đó không có nghĩa Putin hay hệ thống cai trị của ông toàn năng. Laruelle mô tả chế độ Putin là “độc tài cá nhân hợp nhất” (consolidated personalistic authoritarianism)—một dạng cai trị chuyên chế khác với toàn trị tuyệt đối. Nhìn chung, bà viết, Kremlin “không tin mình có thể tái lập bộ não của công dân.” Thay vào đó, họ cố gạt sang bên các ý thức hệ đối nghịch và đưa ra khuyến khích trung thành khổng lồ. Laruelle phát hiện mầm mống của cái bà gọi là “chủ nghĩa phát xít phân mảnh”—tiếng gọi toàn lực cho “chiến tranh tổng lực” và quân sự hóa toàn quốc từ một bộ phận người Nga. Nhưng nhiều người Nga hơn lại không muốn bị lôi vào cuộc chiến; họ muốn tách chiến sự khỏi kinh tế dân sự và đời sống văn hóa.

Tạm thời, đó là lợi thế của hệ thống Putin: nó cần sự thuận phục, không cần cuồng tín. Tuy vậy, chiến tranh càng kéo dài, Kremlin càng cần thêm người sẵn sàng chiến đấu—thậm chí sẵn sàng hy sinh thân thể và tính mạng—như con số ước 30.000–40.000 người mỗi tháng nhận tiền thưởng lớn để ký vào quân đội Nga. Cho đến nay, phần lớn họ đến từ vùng nghèotỉnh lẻ, được thúc đẩy bởi lợi ích vật chất. Như Laruelle kết luận, liệu chính quyền có thể tiếp tục “che chắn phần còn lại của xã hội—đặc biệt là tầng lớp trung–thượng ở các thành phố lớn—khỏi tác động [chiến tranh]” hay không sẽ quyết định sự thành–bại lâu dài của ý thức hệ nhà nước.


Tù nhân của chính hệ thống mình

Rốt cuộc, chiến tranh của Nga rồi cũng sẽ kết thúc. Nhưng Laruelle có lý do bi quan về khả năng đất nước ấy tiến đến một “cải tổ lần hai”, một sự nở rộ mới của tư tưởng tự do. Trên toàn xã hội, kể cả trong giới tinh hoa, lý tưởng lãng mạn về phương Tây như một mô hình đáng noi theo đã tàn lụi và khó lòng phục dựng. Những người ủng hộ chiến tranh rõ ràng nhìn trật tự phương Tây—sức mạnh quân sự–địa chính trị và tập hợp giá trị tự do của nó—bằng thù địch; nhưng ngay cả những người hoài nghi hay phản chiến im lặng cũng mang nỗi cay đắng, thất vọng với Hoa Kỳ và châu Âu—những chủ thể, từ điểm nhìn Nga, vừa bất lực vừa đạo đức giả. Trước hết, họ không ngăn được cuộc chiến và nỗi khổ nó gây ra. Sau đó, họ tìm cách trừng phạt và cô lập chính quyền Nga bằng trừng phạt và cấm đi lại—để rồi người dân thường, kể cả người chống chiến tranh, trở thành thiệt hại phụ. Biểu tượng cho nghịch lý ấy: năm 2024, các nước châu Âu chi nhiều tiền nhập năng lượng Nga hơn tổng hỗ trợ tài chính mà họ cung cấp cho Ukraine. Người Nga có thể không ưa Putin hay cuộc chiến của ông, nhưng với nhiều người, lập luận của ông nghe vẫn thuyết phục: phương Tây vốn chống Nga, và “họ nhắm vào các bạn.”

Soldatov và Borogan ghi lại nghịch lý trong thái độ của bạn bè họ đối với châu Âu và Hoa Kỳ. Dẫu từng có nhiều thiện cảm, giờ đây họ khẳng định ghét “giá trị phương Tây.” Hai tác giả tự hỏi liệu khoảng cách gần gũi—ít nhất về tâm lý—giữa những người bạn ấy với phương Tây có phải chính là điều khiến họ “đầy cảm xúc và giận dữ” khi rốt cuộc nhận ra rằng nước Nga không được chấp nhận vào trật tự tự do trên các điều kiện tự đặt ra. Dù thế nào, họ viết, “chính họ đã giúp Putin cô lập đất nước.” Xét cho cùng, ý thức hệ hoạt động theo cả hai hướng—từ trên xuống và từ dưới lên.

Rate this post

MỚI NHẤT