Tác giả bài gốc: Nathalie Huynh Chau Nguyen
Sau khi miền Bắc giành chiến thắng năm 1975, miền Nam đã chấm dứt tồn tại. Điều gì đã xảy ra với Nam Việt Nam?
Trong hồi ký Tales from a Mountain City xuất bản năm 2010, Quỳnh Dao – 15 tuổi khi Sài Gòn sụp đổ năm 1975 – kể lại cảnh trở về Đà Lạt, thành phố cao nguyên miền Trung, sau khi chiến tranh kết thúc. Quân đội Nhân dân Bắc Việt đã cướp phá nhà của gia đình bà và chất thành đống lửa những quyển sách, tạp chí:
“Có hàng trăm số báo Life, Paris-Match, Reader’s Digest, bộ sưu tập sách của cha suốt một đời, cả truyện tranh chúng tôi đọc lúc nhỏ… Ngọn lửa âm ỉ gặm nhấm từng trang giấy, từ mép sách đến tận gáy, nuốt trọn chúng một cách chậm rãi và chắc chắn.”
Vài tuần sau, gia đình bà bị bộ đội Bắc Việt trục xuất. Năm 1979, Dao vượt biên bằng thuyền, đến trại tị nạn ở Malaysia, rồi sang Úc định cư, trở thành một trong hàng triệu “thuyền nhân”. Khi ấy, đất nước nơi bà sinh ra và lớn lên – Nam Việt Nam – đã biến mất khỏi bản đồ.
Hai miền Việt Nam
Quan niệm sai lầm rằng chiến tranh Việt Nam chỉ là cuộc xung đột giữa Việt Nam và Mỹ vẫn còn phổ biến. Nhưng thực ra có hai nước Việt Nam: Cộng hòa Việt Nam (miền Nam) và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (miền Bắc), mỗi bên có đồng minh theo ranh giới Chiến tranh Lạnh. Tính đến ngày 31/1/1975, miền Nam được 95 quốc gia công nhận, còn miền Bắc chỉ có 65. Thống kê chính thức của Mỹ ghi nhận 254.256 binh sĩ Nam Việt Nam tử trận và 783.602 người bị thương trong giai đoạn 1960–1974 – nhiều gấp hơn năm lần thương vong của Mỹ. Đây mới chỉ là con số đến năm 1974, thực tế chắc chắn cao hơn nhiều. Miền Nam có tỷ lệ thương vong cao nhất trong toàn bộ phe đồng minh, nhưng ngày nay điều này hầu như bị quên lãng – cũng như sự tồn tại của chính quốc gia này.
Đốt sách
Đối với các sử gia nghiên cứu miền Nam, tư liệu và văn bản là một vấn đề lớn. Một trong những việc làm đầu tiên sau khi Sài Gòn thất thủ năm 1975 là đốt sách của nhà xuất bản Khai Trí trên đường Lê Lợi, khi chính quyền cộng sản tập trung đàn áp giới xuất bản, các cơ sở giáo dục và hiệu sách miền Nam. Linh mục André Gelinas cho biết khoảng 80.000 cuốn sách tại Trung tâm Alexandre de Rhodes ở Sài Gòn đã bị thiêu hủy từ 1975 đến 1977. Huỳnh Bội Trân, con gái chủ tiệm sách lớn thứ nhì Biên Hòa, nhớ lại:
“Sau 1975, toàn bộ sách bị tịch thu và chở đi, kể cả sách giáo khoa sinh học, toán, lý, hóa, tất cả từ điển – những thứ chẳng liên quan gì đến ý thức hệ. Toán học vẫn là toán học, dù cộng sản hay tư bản, Nga hay Mỹ. Họ đến bằng xe tải và lấy sạch.”
Khoảng 400 nhà văn, nhà báo, thi sĩ Nam Việt Nam bị đưa đi trại cải tạo tháng 6/1975. Ngày 20/8 cùng năm, sách báo bị coi là phản động bị cấm, và danh mục cấm được mở rộng thêm vào tháng 3/1976 và tháng 5/1977.
Nhưng không chỉ chính quyền mới phá hủy di sản. Nhiều gia đình Nam Việt Nam tự tay đốt, hủy, hoặc phi tang ảnh, giấy tờ để che giấu thân phận. Trong tuyển tập Perfume Dreams, nhà văn gốc Việt Andrew Lam (con trai một vị tướng VNCH) kể lại: năm 11 tuổi, ông nghe lời mẹ tháo ảnh khỏi album, gỡ bằng khen khỏi khung kính, lấy phim từ ống sắt, thư từ trong ngăn bàn… rồi chất lên đốt. Đến khi xong, “kỷ vật của ba thế hệ chỉ còn là tro bụi.”
Người tị nạn
Sự mất mát ảnh, giấy tờ, thư từ… càng nghiêm trọng hơn khi phong trào tị nạn nổ ra trong hai thập kỷ sau chiến tranh – một trong những cuộc di cư lớn nhất thế kỷ 20. Báo cáo năm 1990 của Stephen Denney cho Lawyers Committee for Human Rights ghi nhận:
- 6,5 triệu người ở miền Nam bị ảnh hưởng vì liên hệ gia đình.
- Khoảng 1 triệu người bị đưa vào trại cải tạo, thêm 1 triệu khác bị cưỡng bức đi “vùng kinh tế mới” ở nơi hoang vu, và tự do ngôn luận, đi lại bị hạn chế.
- Chính quyền phân biệt đối xử với ba nhóm: người có liên hệ với chế độ cũ; người Hoa (từ 1976 buộc phải đăng ký); và con lai Mỹ (Amerasians).
Hơn 2 triệu người rời khỏi Việt Nam trong 20 năm sau chiến tranh. Thảm cảnh thuyền nhân được đưa tin khắp thế giới. Liên Hiệp Quốc tổ chức các hội nghị lớn ở Geneva (1979, 1989), và người tị nạn được định cư tại 50 quốc gia. Từ 1975–1997, Cao ủy Tị nạn LHQ ghi nhận 839.228 người Việt đến các trại, chưa kể 134.000 người được di tản sang Mỹ năm 1975, 263.000 người chạy sang Trung Quốc (1978–79), và 623.509 người đi theo Chương trình Ra đi có trật tự (1979–97).
Hầu hết ra đi không giấy tờ. Nhiều người chết đuối khi tìm đường ra biển. Dân ven sông, ven biển Nam Việt Nam thường thấy xác trôi dạt – đa số là phụ nữ, trẻ em, không giấy tờ, chôn trong mộ vô danh.
Các chuyến vượt biên tổ chức bí mật để tránh bị phát hiện và liên lụy người thân. Song song, còn có những “chuyến đi bán chính thức” do chính quyền mới cấu kết với các băng nhóm nước ngoài, thu vàng (trung bình 2.000 USD) và tịch thu nhà cửa, tài sản. Họ hứa cho đi an toàn, nhưng phần lớn chết trên biển. Số tử vong không xác định, ước tính khoảng 500.000. Nhiều thuyền nhân tin rằng: cứ một chiếc thuyền đến nơi thì một chiếc mất tích, và có tới 1 triệu người bỏ mạng ở Biển Đông.

Tưởng niệm
Thương vong khủng khiếp, bao nhiêu mất tích không tìm thấy xác đã khiến cộng đồng Việt hải ngoại có những nỗi đau day dứt không nguôi. Mạng lưới trại tị nạn từng che chở cho hàng triệu người nay gần như không còn, trừ trại Galang ở Indonesia và phế tích trại Bidong ở Malaysia. Năm 2005, cả hai nơi dựng bia tưởng niệm thuyền nhân “đã bỏ mạng trên đường tìm tự do”, được tài trợ bởi cộng đồng Việt ở Úc, Mỹ, Âu. Do Archive of Vietnamese Boat People tại Melbourne thiết kế, thợ đá Indonesia chạm khắc, bia lớn như mộ chí. Nhưng sau khi chính quyền Hà Nội phản đối rằng bia “làm nhục danh dự Việt Nam”, cả Indonesia lẫn Malaysia đều nhượng bộ, ra lệnh phá bỏ. Dù bị phản đối, bia Bidong bị phá tháng 10/2005, bia Galang bị tháo dỡ đến năm 2008.
Lịch sử truyền khẩu
Câu chuyện bia tưởng niệm cho thấy nỗ lực hữu hình của cộng đồng Việt hải ngoại để gìn giữ ký ức, đồng thời cũng cho thấy nhà nước Việt Nam vẫn nhạy cảm về ký ức Nam Việt Nam và thuyền nhân. Tuy vậy, cộng đồng này ngày nay ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc lưu giữ ký ức chiến tranh. Dù nhiều di sản văn hóa đã mất trong những năm sau chiến tranh, các kho lưu trữ truyền khẩu mới đang hình thành.
Tại Mỹ, dự án Viet Stories: Vietnamese American Oral History Project của Đại học California và bộ sưu tập phỏng vấn truyền khẩu của Vietnamese American Heritage Foundation tại Đại học Rice lưu giữ hàng trăm lời kể. Ở Úc, Thư viện Quốc gia có các dự án phỏng vấn cựu binh và thế hệ thứ hai người Việt (2013–14 và 2018–22).
Chẳng hạn, Nguyễn Văn Luyến, sĩ quan thiết giáp 22 tuổi bị thương nặng năm 1974, khi phỏng vấn năm 2013 kể: “Chúng tôi chiến đấu trong điều kiện tồi tệ, không có hỗ trợ… Tôi tự hào vì chúng tôi vẫn tiếp tục, chỉ dừng lại khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh.”
Vũ Văn Bảo, phi công Chinook, 27 tuổi khi chiến tranh kết thúc, nhớ lại: “Chúng tôi – miền Nam – chỉ tự vệ thôi. Chúng tôi không tiến ra Bắc. Vừa chiến đấu vừa xây dựng đất nước.”
Bà Thanh, cựu đại úy trong Quân đoàn Phụ nữ, giấu tên đầy đủ, chia sẻ: “Mỗi năm tôi về Việt Nam thăm những thương binh đồng đội đang còn sống trong cảnh cực khổ… Họ đã mất đi một phần thân thể trên chiến trường. Tôi luôn nhớ quê hương… Chính nỗi đau ấy khiến ta nhớ mãi.”










































