Tác giả bài gốc: Lạp Chúc Nguyễn Huy
Blog Lịch Sử tổng hợp và biên soạn
Trong nhiều năm gần đây, đặc biệt là sau khi chiến tranh kết thúc, thỉnh thoảng lại có những quan điểm khẳng định rằng Ấp Chiến Lược – một chương trình “quốc sách” dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm – đã đem lại sự bình định, ngăn chặn cộng sản và tạo ra đời sống an bình cho người dân miền Nam. Những người này cho rằng chương trình chính là mấu chốt giúp Miền Nam trụ vững, và rằng chính vì Trung tướng Dương Văn Minh hủy bỏ nó sau cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 nên miền Nam mới thất thủ. Họ cũng gọi cố vấn Ngô Đình Nhu là “cha đẻ” của chương trình.
Nhưng lịch sử có nhiều lớp lang, và sự thật không đơn giản như vậy. Trên thực tế, “Ấp Chiến Lược” bị hủy bỏ không phải bởi Dương Văn Minh mà bởi sắc luật số 103/SL/CT do Thủ tướng Nguyễn Khánh ký ngày 9/3/1964. Hơn nữa, chương trình này chỉ được thực thi rộng rãi từ năm 1962, trong khi Đệ Nhất Cộng Hòa đã tồn tại từ năm 1954. Để hiểu rõ bản chất và kết quả của Ấp Chiến Lược, cần trở lại với các nguồn tài liệu lịch sử chính thống – những tài liệu mà không ít người trích dẫn “nghe nói” đã bỏ qua.
Từ trải nghiệm cá nhân: Ký ức về Ấp Chiến Lược
Bản thân tôi từng chứng kiến và tham gia vào nhiều hoạt động thông tin, tuyên truyền và an ninh trong những năm 1950. Từ 1954, đặc biệt sau khi Bảo Đại bổ nhiệm ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam, công việc của tôi rất bận rộn: vừa làm biên tập viên và phát thanh viên cho “Tuần báo Tiếng Kèn”, trả lời thư thính giả, vừa viết mục thời luận, giới thiệu nhạc cổ và nhạc ngoại quốc trên Đài Quân đội. Tôi cũng soạn kịch bản cho “Đại đội võ trang tuyên truyền”, viết diễn văn cho các tư lệnh quân khu, làm tuyên truyền viên lưu động, phóng viên chiến tranh, thuyết trình ở các buổi “Học tập chính trị và Công dân giáo dục”… Công việc dồn dập đến mức tôi được giao giảng dạy môn “Tác động tinh thần” (tiền thân của Tâm lý chiến và Chiến tranh chính trị) tại Trường sĩ quan Đập Đá, và giảng ở lớp đào tạo “Tình báo Ấp Chiến Lược” gần Phủ Cam – nhưng có lúc vì quá tải tôi phải từ chối.
Đến năm 1962, tôi được đưa đi thụ huấn một khóa tình báo đặc biệt – khóa cao cấp đầu tiên mà CIA mở cho một số viên chức cảnh sát, hành chính và sĩ quan quân đội được chọn lựa kỹ. Sau đó tôi được phân công vào “Đoàn Công Tác Đặc Biệt” (SOC – Special Operations Corps), trực thuộc Phủ Đặc ủy Tình báo Trung ương, được Tổng Giám đốc Cảnh sát & Công an Nguyễn Văn Y hỗ trợ. Đội của tôi hoạt động chủ yếu ở cao nguyên Trung phần, đặt trụ sở tại Ban Mê Thuột dưới vỏ bọc “Phòng Cảnh sát Tư pháp”. Vì là “khảo cứu địa lý”, tôi phải nắm vững tình hình các địa điểm dinh điền, khu trù mật và Ấp Chiến Lược vừa bắt đầu hình thành. Lần đầu tiên tôi trực tiếp làm việc với cố vấn CIA, đọc nhiều tài liệu tiếng Anh về nguồn gốc Ấp Chiến Lược, về những kinh nghiệm ở Malaya và Philippines, về ưu khuyết điểm của mô hình này.
Nguồn gốc
Khái niệm “Ấp Chiến Lược” không phải là sáng tạo thuần túy của chính quyền Ngô Đình Diệm. Người được công nhận là “tổng giám đốc điều hành” của chương trình tái định cư làng xóm (Village Resettlement) – tiền thân của Ấp Chiến Lược – là Sir Robert Thompson, sĩ quan không quân Anh và chuyên gia chống khủng hoảng. Ông là bộ trưởng quốc phòng thường trực của chính phủ Malaya, nơi vào cuối thập niên 1940 – 1950 ông đã thực thi mô hình “làng tái định cư” của Tướng Gerald Templer nhằm triệt phá lực lượng du kích cộng sản MNLA (Malayan National Liberation Army). Với phương châm “tách cá khỏi nước”, người Anh gom các cộng đồng người Hoa và Malay vào các làng được bảo vệ, cung cấp tiện nghi xã hội và kinh tế, xây dựng lực lượng tự vệ, song song với các chiến dịch quân sự.
Tại Việt Nam, từ 1952–1954, tướng Pháp Francois Linares đã tổ chức tái định cư khoảng 3 triệu người Bắc bộ vào các “nông thị” (agroville) – thực chất là các khu trù mật được bảo vệ bằng hàng rào. Người Pháp áp dụng mô hình Malaya: bình định bằng sự phồn thịnh (pacification through prosperity), cung cấp tiện nghi, khuyến khích lập lực lượng bán quân sự. Nhà báo Bernard Fall từng nhận xét các khu này “rập khuôn mô hình Anh tại Malaya”.
Sau 1954, với kết quả Hiệp định Genève, Mỹ trở thành nhà tài trợ chính của chính phủ Ngô Đình Diệm. Cố vấn Mỹ, đặc biệt là đại tá CIA Edward Lansdale, đề xuất áp dụng mô hình “resettlement” cho Việt Nam. Về sau, Sir Robert Thompson cùng phái bộ Anh BRIAM cũng sang cố vấn.
Ba chương trình và ba cấp độ
Để hiểu Ấp Chiến Lược, cần phân biệt ba chương trình khác nhau nhưng thường bị lẫn lộn: Ấp Chiến Lược (giai đoạn 1), Địa Điểm Dinh Điền (giai đoạn 2) và Khu Trù Mật (giai đoạn 3).
Ấp Chiến Lược là cấp cơ sở nhỏ nhất. Chúng gom dân tại chỗ, rào ấp bằng tre, đào hào, chỉ có một cổng ra vào do dân vệ canh gác. Dân làm việc ban ngày, tối về đóng cổng. Mục đích là ngăn du kích tiếp xúc dân, bảo vệ dân và giữ sản vật khỏi bị du kích chiếm, có tính chiến thuật (cầm cự để chờ quân cứu viện). Tuy “tại chỗ”, nhưng nhiều gia đình vẫn phải rời bỏ nhà cũ để vào ấp.
Địa Điểm Dinh Điền rộng hơn, kết hợp tái định cư với khai hoang. Theo Phủ Tổng ủy Dinh Điền, chương trình di dân dành cho “nông dân thiếu đất ở miền Trung, công nhân thất nghiệp, một số di cư miền Bắc chưa ổn định, cựu chiến binh, chính trị phạm, đồng bào Thượng, Hoa kiều tị nạn, Việt kiều hồi hương…” Người dân được đưa tới đất mới, làm nghề cũ và học nghề mới, có nông cụ, có lực lượng tự vệ mạnh hơn. Đây là cấp chiến lược, tự phòng, tự túc, hướng tới sản xuất quy mô.
Khu Trù Mật là dinh điền lý tưởng. Khi một địa điểm dinh điền phát triển thành “khu gia cư khang trang” với nhà ở, vườn cây, chợ, bệnh xá, trường học, cầu cống, kênh mương, trụ sở quản trị… và tự túc được, nó được nâng lên thành Khu Trù Mật. Dân cư ở đây thường cùng gốc gác, tín ngưỡng, chính kiến; khu chia lô bàn cờ, có khu hành chính, khu thương mại, khu cư trú, khu sản xuất. Nhiều Khu Trù Mật về sau trở thành thị trấn, quận lỵ.
Quá trình thực hiện dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa
Ngay sau 1954, tại miền Nam, đa số cán bộ Việt Minh phải tập kết ra Bắc; lực lượng “cơ sở” còn lại chưa đủ mạnh. Nhà Ngô, với sự hậu thuẫn của Mỹ, dẹp các phe phái, kiểm soát tình hình và xây dựng chương trình phát triển nông thôn. Giai đoạn 1954–1960, Đệ Nhất Cộng Hòa không triển khai Ấp Chiến Lược (giai đoạn 1), mà tập trung vào Dinh Điền (giai đoạn 2). Phủ Tổng ủy Dinh Điền thành lập ngày 23/1/1957, dưới quyền trực tiếp của Tổng thống, ưu tiên hàng đầu trong các cơ quan thuộc phủ tổng thống. Mục tiêu là “điều hòa dân cư”: di chuyển nông dân thiếu đất miền Trung, công nhân thất nghiệp ở đô thị, một số di cư miền Bắc chưa ổn định, cựu chiến binh, chính trị phạm… đến vùng đất rộng người thưa (Đông Nam phần, Cao nguyên trung phần, miền Tây Nam bộ); khai hoang, trồng lúa, trồng cao su, cây công nghiệp, gai ki-náp; vừa sản xuất vừa giữ đất.
Trong năm 1957–1960, theo tài liệu “Thành tích sáu năm hoạt động của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa”, chương trình dinh điền đã thành lập 126 địa điểm: 16 (1957), 32 (1958), 36 (1959), 42 (1960). Nhiều địa điểm nằm ở Pleiku (25), Darlac (22), Quảng Đức (7), Bình Tuy, Phước Long, Bình Long, Phước Thành, Long Khánh, Tây Ninh, Ninh Thuận, Bình Dương, Phước Tuy, Phú Yên… Đến năm 1960, một số địa điểm dinh điền được nâng lên Khu Trù Mật – quá trình này diễn ra song song với việc củng cố và cải tiến các dinh điền “ồ ạt” của năm 1957–58.
Phải tới ngày 3/2/1962, chính phủ mới chính thức công bố quốc sách Ấp Chiến Lược và thành lập Ủy ban Liên bộ đặc trách Ấp Chiến Lược (theo sắc lệnh 11/TTP). Nhiều tài liệu nhầm tưởng Ấp Chiến Lược có từ 1955 hoặc 1956, nhưng thực tế là trước 1962 chưa có mô hình này; những hàng rào, hào chông ở các dinh điền và khu trù mật sau này khiến dân chúng gọi chung là “ấp chiến lược”.
Nguyên nhân thất bại
Trong giai đoạn 1954–1960, khi tôi còn phục vụ ở vùng Thừa Thiên và sau đó bị điều lên Cao nguyên (Ban Mê Thuột) năm 1960, tôi chứng kiến nhiều vấn đề nội tại của chương trình dinh điền. Ở cao nguyên, Nha Cảnh sát Công an Cao nguyên có quyền tự trị; tôi làm trưởng phòng Cảnh sát Tư pháp kiêm phụ tá an ninh chính trị. Khi điều tra dinh điền Kiến Phúc (Quảng Đức) – một dinh điền của Phủ Tổng ủy Dinh Điền – tôi phát hiện dân bị buộc nộp phí chụp hình dù Mỹ đã tài trợ; nhiều đơn khiếu nại về thu tiền, ăn chặn, tham nhũng nảy sinh. Trên đường đi điều tra, tôi bị phục kích, gãy xương, phải nhường vụ cho đồng nghiệp. Từ câu chuyện nhỏ, tôi hiểu rằng việc quản lý dinh điền thiếu minh bạch; “ông Địa” (Địa điểm trưởng) và cấp quản lý địa phương nảy sinh tệ nạn.
Từ năm 1959, chính quyền gấp rút thành lập dinh điền ở nhiều nơi mà không chuẩn bị kỹ. Địa điểm không phù hợp; dân miền Nam và dân di cư miền Bắc, người cùng tín ngưỡng và người khác tín ngưỡng bị gom chung; nghề nghiệp lẫn lộn; người bị coi là “phần tử phản động” sống chung với người được “ưu ái”. Sau đó, nhà nước phải phân tách: đồng bào Công giáo tách riêng thành các khu như Cái Sắn; “số tốt” được ưu tiên; người có nghề thủ công được đưa tới nơi phù hợp.
Khi tôi được giao giữ chức Trưởng ty Cảnh sát Quốc gia tỉnh Quảng Đức sau 1963, nhiều dân ở các dinh điền kéo nhau bỏ về quê. Họ là nông dân gốc Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định… Họ phản ánh bị “lao động không lương” làm đường, đào mương, trồng cây cho dinh điền; đóng góp vật liệu; mất mùa vì phải phá nhà để dựng khu trù mật; người có ruộng bị trưng thu không được bồi thường; bị ép phá mồ mả tổ tiên. Việc quản lý lỏng lẻo, cấp trên “dàn dựng” công trình khánh thành để lấy điểm, khiến dân mất lòng tin. Khi nghe tin Ngô Đình Diệm bị lật đổ, họ đổ về quê cũ; tôi ra ngã ba Dak Song chặn lại, hỏi han; cảm nhận sâu nỗi bất mãn.
Những câu chuyện khác cho thấy sự giả tạo: khi Tổng thống đi khánh thành khu trù mật ở miền Tây, người ta bứng cả cây ăn trái lớn cắm tạm, ghép cành vào gốc; khi ông về, cây khô héo. Cựu cố vấn kinh tế Nguyễn Hữu Hanh kể lại việc trồng cây để “ghi điểm” với Diệm. Đại tá Dương Hiếu Nghĩa, khi diện kiến Tổng thống trước khi về làm quận trưởng Bình Minh (Vĩnh Long), đã thẳng thắn nói với ông rằng khu trù mật làm dân mất ruộng vườn, phải phá nhà phá mồ mả, trồng cây ghép trái dối trá; công trình “trù mật một buổi” – hôm sau vắng tanh. Tổng thống Diệm nghe thì chăm chú nhưng bị “bưng bít”, vẫn tin vào báo cáo đẹp của cấp dưới. Ông nổi nóng khi bị tỉnh trưởng Kiến Hòa xin trợ cấp cho dân làm trù mật; ông đập gạt tàn thuốc, không cho tiền. Tác giả Nguyễn Trân – người từng cộng tác với ông Diệm – chua xót: dân phải phá ruộng vườn để vào trù mật, bị ép nộp tre, đóng tiền, lao động khổ sai mà không được đền bù. Chính sách phá mùa màng “làm khu trù mật” khiến nông dân oán hận; chính quyền phải dừng sau 26 khu và chuyển sang Ấp Chiến Lược.
Ấp Chiến Lược dưới lăng kính Mỹ và các nhà nghiên cứu
Năm 1961, trước sự gia tăng của du kích ở miền Nam, Chính phủ Kennedy tăng viện trợ: 65 triệu USD quân dụng, 136 triệu USD kinh viện; đến tháng 12/1961, có 3 200 quân nhân Mỹ tại Việt Nam. Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Mỹ (MACV) thành lập tháng 2/1962, dưới quyền tướng Paul Harkins. Mỹ coi Ấp Chiến Lược là “đá tảng” của chống nổi loạn: dự kiến hợp nhất 14 000 làng thành 11 000 ấp kiên cố với nhà, trường, giếng, tháp canh, tự vệ. Mục tiêu: tách du kích khỏi dân, “tách cá khỏi nước” theo Mao. Nhưng theo đánh giá của các học giả phương Tây, chương trình gặp nhiều vấn đề: lực lượng tự vệ huấn luyện kém, Quân lực VNCH hỗ trợ không đủ; tham nhũng, gia đình trị, cưỡng bách dân di dời gây oán hận; nhiều ấp bị du kích tấn công. Ước tính trong số 8 000 ấp dựng lên, chỉ khoảng 1 500 ấp thật sự có hiệu quả.
Nhà sử học Roger Hilsman (thứ trưởng Ngoại giao đặc trách Viễn Đông) phê bình: “Nếu lập ấp sát vùng an ninh rồi từ đó nới rộng như vết dầu loang thì là chuyện khác. Đằng này, ông Nhu tự ý lập ấp giáp ranh Campuchia, trong tầm hành quân của tiểu đoàn chính quy Việt Cộng; dân ấp không phải lính, không có quân bảo vệ, kết quả ra sao ai cũng biết.” Tướng Huỳnh Văn Cao, cựu tư lệnh sư đoàn 7, viết trong hồi ký rằng Ấp Chiến Lược triển khai quá trễ, không chuẩn bị, và không phù hợp chống đơn vị chính quy Việt Cộng; các ấp dễ bị “cắt đuôi” hoặc bị “lôi kéo”. Đại tá Mỹ John Paul Vann, cố vấn chiến thuật, cho rằng việc dồn nông dân vào ấp khiến họ oán giận; du kích chỉ cần ra ruộng ban ngày tuyên truyền; ban đêm, ấp bị tấn công, dân chạy, lính quận không kịp đến. Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ William Colby (sau là giám đốc CIA) nhận xét trong hồi ký “Vietnam: History of a Lost Victory” rằng Ấp Chiến Lược tại Cao nguyên do Diệm – Nhu chỉ đạo đã gặp chống đối, chính quyền dàn dựng khánh thành nhưng thực chất dân bỏ trống.
Sự chồng chéo và việc “đốt giai đoạn”
Đệ Nhất Cộng Hòa vận hành nhiều cơ quan trực thuộc Tổng thống: Phủ Tổng ủy Dinh Điền, Phủ Đặc ủy Công Dân Vụ, Phủ Tổng ủy Hợp tác xã và Nông tín… Chính phủ muốn cải tiến dân sinh, nhưng lại tổ chức nhiều đoàn thể (Hội đồng xã, các hội nông dân, đoàn thanh niên, đoàn phụ nữ…); huấn luyện chính trị, chủ nghĩa Nhân Vị; vận động dân tham gia “Phong trào Cách mạng Quốc gia”. Phủ Đặc ủy Công Dân Vụ dẫm chân lên các bộ Nội vụ, Quốc phòng, Thông tin, Giáo dục, Y tế, Canh nông; tranh giành vai trò với Phủ Tổng ủy Dinh Điền, Nha Xã hội, Nha Thanh niên. Sự chồng chéo này gây bối rối, thiếu tập trung.
Chính quyền “đốt giai đoạn”: chưa thực hiện Ấp Chiến Lược (giai đoạn 1) đã vội mở dinh điền (giai đoạn 2), rồi lập khu trù mật (giai đoạn 3). Sau năm 1960, khi tình hình xấu đi (với sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng), nhà Ngô nhận ra thiếu ấp chiến lược nên quay lại giai đoạn 1, đặt mục tiêu dựng 20 000 ấp trong hai năm (1962–1963) – nhưng đến cuối 1963 chỉ có hơn 7 000 ấp (trong đó chỉ khoảng 1 500 đáng kể). Cố vấn Ngô Đình Nhu xem Ấp Chiến Lược là biểu tượng của chủ nghĩa Nhân Vị, đặt hết sự nghiệp chính trị vào đó, nhưng nỗ lực trở nên tuyệt vọng trong hoàn cảnh bất lợi: Mỹ đòi cải cách, Du kích mạnh lên, dân bất mãn, anh em họ Ngô mất lòng dân và dàn lãnh đạo quân sự. Lập trường đối với Ấp Chiến Lược giữa cố vấn Mỹ (Edward Lansdale, Robert Thompson) và nhà Ngô cũng khác nhau: Lansdale coi dân là trọng tâm, Diệm coi dân là đối tượng kiểm soát; Thompson muốn dùng tim óc thay bom đạn, Diệm – Nhu lại sử dụng bạo lực và cưỡng ép. Lệch pha này khiến chương trình khó thành công.
Hậu quả và những bài học
Sau đảo chính 1/11/1963, Ủy ban Liên bộ Ấp Chiến Lược bị giải tán ngày 9/3/1964; chương trình ngưng trệ, dân bỏ ấp. Nhưng sự đổ vỡ không phải nguyên nhân khiến miền Nam thất thủ. Ấp Chiến Lược chỉ thực sự triển khai trong khoảng một năm rưỡi (1962–1963) và đã gặp vô vàn khó khăn. Cố vấn Ngô Đình Nhu tự hào cho rằng mình sáng tạo mô hình này, nhưng thực chất nó dựa trên kiểu mẫu Anh ở Malaya, Mỹ ở Philippines, Pháp ở Bắc Việt, và cả kinh nghiệm từ thời Nguyễn (đại nam thực lục ghi Tiểu Phủ sứ Nguyễn Tấn năm 1863 đã gom dân lập ấp phòng thủ khi đánh dân Mọi ở Quảng Ngãi). Khi Nhu tuyên bố xem Ấp Chiến Lược như “quốc sách” và coi nó như “chìa khóa chiến thắng”, ông đã bỏ qua những sai lầm trong triển khai và sự thiếu chuẩn bị của chính quyền.
Người dân bị cưỡng bách vào ấp cảm thấy mất nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả; bị lao động không lương; phải nộp tre, nộp thuế; đến mùa thu hoạch phải ở trong ấp, du kích gặt lúa ngoài đồng. Những “rừng nhân dân” (lực lượng tự vệ) huấn luyện sơ sài, vũ khí thô sơ, dễ bị tấn công. Quân đội thì không kịp tiếp cứu. Thay vì “tách cá khỏi nước”, ấp chiến lược nhiều khi tách dân khỏi quân đội, còn du kích vẫn “đi tắt qua ruộng”.
Nguyễn Trân, trong hồi ký “Công và Tội – Những sự thật lịch sử”, viết rằng chính sách dồn dân vào ấp khiến nông dân oán hận; những khu trù mật chỉ “trù mật một buổi”; khi Diệm bị lật đổ, dân đổ về quê cũ. Cựu Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia Nguyễn Hữu Hanh mô tả những mánh lới dàn dựng khánh thành: cây ăn trái mới cắm tạm, nhà cửa trang trí vội vàng; khi tổng thống đi qua, tất cả hoành tráng; hai ngày sau, mọi thứ xơ xác. Dương Hiếu Nghĩa, cựu đại tá, từng nói thẳng với Diệm: dân không được bồi thường khi làm trù mật; họ mất ruộng, vườn; các khu chỉ “tô hồng” để báo cáo.
Khi Lê Duẩn và Tổng bí thư Đảng Lao động vào Nam làm Bí thư Trung ương Cục, ông phát biểu rằng chính sách Ấp Chiến Lược chỉ có tác dụng tạm thời, vì cuối cùng “cá vẫn tìm được nước”. Sau 1963, Mặt trận Giải phóng miền Nam và Quân giải phóng đẩy mạnh tiến công; nhiều ấp chuyển sang tay họ. Việc hủy bỏ ấp chiến lược là hệ quả của sự đổ vỡ chính trị và thực tế chiến trường, chứ không phải nguyên nhân duy nhất khiến miền Nam thất bại.
Kết luận: Nhìn lại để hiểu đúng
Ấp Chiến Lược và các chương trình định cư dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa là những thí nghiệm trong bối cảnh chiến tranh và phát triển. Có nơi thành công – những khu dinh điền và khu trù mật dọc sông Tiền, sông Hậu trở thành thị trấn; có nơi thất bại, như các ấp chiến lược ở vùng giáp biên, vùng đất phèn. Nhìn lại, chúng ta thấy:
- Giai đoạn 1957–1960: Chính quyền tập trung vào dinh điền và phát triển kinh tế. Chương trình dinh điền có mục tiêu tốt, nhưng triển khai vội vã, thiếu chuẩn bị, quản lý kém, dẫn tới tham nhũng, bất bình. Cần đánh giá chương trình này trên cả mặt tích cực lẫn hạn chế.
- Giai đoạn 1960–1963: Khu trù mật ra đời như dinh điền lý tưởng; nhưng một số nơi dàn dựng, khiến dân mất lòng tin. Người dân bị cưỡng ép lao động, bị mất ruộng vườn.
- Ấp Chiến Lược 1962–1963: Chính quyền muốn nhanh chóng xây dựng “thành lũy” chống cộng, nhưng thời gian quá ngắn, mục tiêu 20 000 ấp không đạt được; mô hình được áp dụng sai nơi sai chỗ, lực lượng tự vệ yếu, phương pháp cưỡng bức; người dân bất mãn; du kích vẫn xâm nhập. Chương trình được bắt đầu quá muộn, triển khai quá nhanh, và kết thúc chỉ sau một năm rưỡi.
Lịch sử không phải để quy tội hay chụp mũ, mà để rút bài học. Một chính sách dù mang tên “quốc sách” hay “chiến lược” cũng không thể thành công nếu không đặt người dân làm trung tâm, không dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về điều kiện tự nhiên và xã hội, không tôn trọng quyền lợi và văn hóa của cộng đồng địa phương. Đặt lại những câu hỏi cũ dưới ánh sáng tài liệu lịch sử sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn vì sao những chương trình như Ấp Chiến Lược ra đời, vận hành, rồi thất bại. Và cũng để thấy rằng không nên thần thánh hóa hay bôi xấu một chính sách chỉ dựa trên cảm xúc; sự thật luôn phức tạp hơn lời ca tụng hay lời đổ lỗi.









































