Thế Giới Cận Đại

Lịch sử quan hệ ngoại giao Nga và Ba Lan

Nga và Ba Lan có mối quan hệ ngoại giao phức tạp từ thời Trung Cổ. Và phần lớn là thù địch

Nguồn: Wikipedia
0 views
quan he nga ba lan

Quan hệ giữa Ba Lan và Nga có một lịch sử dài và thường xuyên đầy biến động, bắt đầu từ cuối thời Trung Cổ. Qua nhiều thế kỷ, hai nước đã nhiều lần lâm vào chiến tranh: từng có lúc Ba Lan chiếm được cả Moskva trong thời kỳ Cộng hòa Liên bang Ba Lan – Litva, và sau đó Nga lại thống trị Ba Lan trong thế kỷ 19 và 20, dẫn đến mối quan hệ căng thẳng cùng vô số nỗ lực của người Ba Lan nhằm giành lại độc lập. Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản năm 1989, quan hệ giữa hai nước bước sang giai đoạn mới với những tín hiệu ấm lên dưới thời Tổng bí thư Liên Xô Mikhail Gorbachev và Tổng thống Nga Boris Yeltsin. Tuy nhiên, quan hệ lại xấu đi rõ rệt sau khi Nga xâm lược Gruzia năm 2008, sáp nhập Crimea năm 2014, và đặc biệt là cuộc xâm lược Ukraine năm 2022.

Kể từ khi bùng nổ Chiến tranh Nga – Ukraine, quan hệ giữa chính phủ và người dân hai nước ngày càng trở nên thù địch. Theo một khảo sát năm 2022, chỉ có 2% người Ba Lan nhìn nhận Nga một cách tích cực – mức thấp nhất thế giới trong số các quốc gia được khảo sát.

Lịch sử

Ba Lan và Rus Kiev

Một trong những sự kiện sớm nhất trong lịch sử quan hệ Rus – Ba Lan xảy ra vào năm 981, khi Đại công tước Kiev Vladimir Svyatoslavich chiếm các thành Cherven từ Công quốc Ba Lan. Dù vậy, trong giai đoạn đầu, quan hệ giữa hai bên nhìn chung khá gần gũi và hòa hiếu, chưa từng xảy ra chiến tranh lớn.

Năm 966, Ba Lan chấp nhận Kitô giáo từ Rôma, trong khi Rus Kiev – tiền thân của Nga, Ukraine và Belarus – lại được Kitô hóa theo Constantinople. Đến năm 1054, sự chia rẽ lớn trong nội bộ Kitô giáo đã tách Giáo hội thành hai nhánh Công giáo và Chính thống, khiến người Ba Lan tách biệt hẳn với các dân Slav phương Đông.

Năm 1018, Svyatopolk “Kẻ bị nguyền rủa” chạy khỏi Kiev và cầu cứu vua Ba Lan Bolesław I “Dũng cảm”. Quân Ba Lan đánh bại Yaroslav “Thông thái” trong trận sông Bug, tiến vào Kiev và chiếm giữ thành phố. Tuy nhiên, thay vì trao lại quyền lực cho Svyatopolk, Bolesław tự mình cai trị thành. Điều này khiến dân Kiev nổi dậy và “giết người Ba Lan”. Bolesław bỏ chạy, mang theo kho báu và cả chị em gái của Yaroslav. Các thành Cherven trở lại thuộc Ba Lan, nhưng sau đó lại bị Yaroslav cùng em trai Mstislav chiếm lại vào năm 1030–1031.

Một câu chuyện tương tự lặp lại năm 1069, khi Đại công tước Izyaslav Yaroslavich chạy sang Ba Lan cầu cứu cháu là Bolesław II. Bolesław II mang quân sang Kiev, can thiệp vào tranh chấp hoàng tộc Rus để ủng hộ Izyaslav. Truyền thuyết kể rằng thanh kiếm nghi lễ Szczerbiec – được dùng trong lễ đăng quang của các vua Ba Lan – đã bị sứt mẻ khi Bolesław I hoặc II chém vào Cổng Vàng Kiev. Tuy nhiên, chi tiết này không thể đúng, bởi Cổng Vàng chỉ được xây dựng vào những năm 1030 và kết quả giám định niên đại cho thấy thanh kiếm có niên đại muộn hơn, khoảng nửa sau thế kỷ 12.

Bên cạnh những xung đột, Ba Lan và Rus Kiev cũng từng có nhiều giai đoạn chung sống hòa bình và liên minh quân sự. Năm 1042, vua Ba Lan Kazimierz I liên minh với Yaroslav “Thông thái” bằng cuộc hôn nhân với công nương Maria Dobroneg, em gái đại công tước Kiev. Năm 1074, một hòa ước được ký kết giữa Vladimir Monomakh và Bolesław II; năm 1076, Monomakh cùng Oleg Svyatoslavich còn giúp người Ba Lan trong cuộc chiến chống người Séc. Đại công tước Kiev Svyatopolk Izyaslavich cũng kết thân với vua Ba Lan Bolesław III bằng cuộc hôn nhân chính trị: con gái ông kết hôn với Bolesław III. Khi Bolesław III xung đột với em trai Zbigniew, quân Rus sang hỗ trợ và buộc Zbigniew phải thần phục.

Cũng giống như Rus, Ba Lan phải đối mặt với nhiều cuộc xâm lược của Mông Cổ trong thế kỷ 13. Tuy nhiên, khác với Rus, Ba Lan không rơi vào ách đô hộ Mông Cổ, nhờ đó có điều kiện phát triển thương mại, văn hóa và xã hội. Năm 1340, sau khi Vladimir Lvovich – hậu duệ cuối cùng của triều Rurik ở Galicia – qua đời, lãnh thổ Galicia được vua Ba Lan Kazimierz III “Đại đế” thừa kế và sáp nhập vào Vương quốc Ba Lan.

Moskva và Đế chế Nga

Quan hệ giữa Ba Lan và Moskva luôn căng thẳng, đặc biệt từ thế kỷ 16 khi Đại công quốc Litva l lôi kéo Vương quốc Ba Lan vào các cuộc chiến với Moskva. Theo sử gia Andrzej Nowak, chính liên minh Ba Lan – Litva đã đặt Ba Lan Công giáo phương Tây và Nga Chính thống giáo vào thế đối đầu trực tiếp, tranh giành ảnh hưởng chính trị và văn minh ở Trung – Đông Âu.

Đã có nhiều nỗ lực nhằm xây dựng liên minh, thậm chí từng có ý tưởng bầu sa hoàng Moskva lên ngôi vua Ba Lan để lập một “Liên bang Ba Lan – Litva – Moskva”, nhưng tất cả đều thất bại. Trái lại, nhiều cuộc chiến nổ ra. Đáng chú ý nhất là Chiến tranh Ba Lan – Moskva (1605–1618), khi quân Ba Lan tận dụng tình trạng hỗn loạn nội chiến của Nga để chiếm được Moskva – sự kiện để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử quan hệ hai nước.

Sau này, khi Moskva trở thành Đế chế Nga, họ quay lại lợi dụng sự suy yếu của Liên bang Ba Lan – Litva để chiếm đất, dời biên giới về phía tây trong các cuộc chiến như Chiến tranh Nga – Ba Lan (1654–1667) và tham gia vào thời kỳ “Đại hồng thủy Thụy Điển”. Đến đầu thế kỷ 18, hệ thống chính trị Ba Lan suy đồi thành tình trạng hỗn loạn (cái gọi là “Tự do Vàng”), tạo điều kiện để Nga can thiệp vào nội bộ, cả chính trị lẫn quân sự. Giữa thế kỷ 18, ảnh hưởng của các sứ thần Nga tại Ba Lan được ví như quyền lực của các toàn quyền thực dân, và Liên bang dần bị coi như một xứ bảo hộ của Nga.

Sau thất bại của phong trào Liên minh Bar chống lại ảnh hưởng Nga, Ba Lan bước vào thời kỳ bi kịch: các cuộc phân chia lần thứ nhất (1772), lần thứ hai, và lần thứ ba (1795) đã xóa sổ Ba Lan khỏi bản đồ châu Âu. Như Nowak nhận xét, chủ nghĩa thực dân Nga tìm được “lý lẽ mới từ ánh sáng Khai sáng”: họ mô tả Ba Lan như một đất nước vô chính phủ, nguy hiểm, cần phải bị “hàng xóm khai sáng” dập tắt tư tưởng Công giáo và dân chủ.

Trong 123 năm tiếp theo, phần lớn lãnh thổ và dân cư Ba Lan nằm dưới ách cai trị của Đế chế Nga. Tuy vậy, người Ba Lan vẫn kiên cường phục hưng văn hóa và chính trị, với đỉnh cao là Hiến pháp ngày 3 tháng 5 năm 1791 và Khởi nghĩa Kościuszko năm 1794. Nhiều kiều dân và tình nguyện viên Ba Lan đã tham gia quân đội Pháp Cách mạng và Pháp Napoléon để chống lại các thế lực từng chia cắt quê hương.

Sau năm 1815, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra nhằm giành lại độc lập và chống lại chính sách Nga hóa (Russification), như Khởi nghĩa Tháng Mười Một (1830) và Khởi nghĩa Tháng Giêng (1863). Tuy nhiên, chỉ đến sau Thế chiến thứ nhất, Ba Lan mới giành lại được độc lập, thành lập Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan.

Thời Liên Xô

Phong trào dân tộc chống lại ách cai trị của Nga tại Ba Lan vẫn tiếp diễn suốt thế kỷ 19. Sau Cách mạng Nga và sự sụp đổ của triều đại Romanov, Đế quốc Đức buộc chính quyền Bolshevik non trẻ của Vladimir Lenin ký Hiệp ước Brest-Litovsk, nhường hầu hết phần đất Ba Lan thuộc Nga thành một quốc gia chư hầu của Đức.

Ngay sau khi Đức bại trận và Ba Lan giành lại độc lập năm 1918, quốc gia non trẻ này lập tức đối diện với cuộc chiến chống lại nước Nga Bolshevik. Cuộc Chiến tranh Ba Lan – Xô Viết kết thúc bằng chiến thắng vang dội của Ba Lan trong trận Warsaw, phá hỏng kế hoạch của Lenin muốn đưa Hồng quân tràn sang phương Tây để khởi động cách mạng cộng sản toàn cầu. Tuy nhiên, Ba Lan không đạt được mục tiêu lớn hơn là sáp nhập các vùng lãnh thổ do Xô viết chiếm giữ như Ukraine, Belarus và Litva, vốn sau đó được hợp nhất vào Liên Xô dưới hình thức các nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết.

Trong hai thập niên tiếp theo, Liên Xô coi Ba Lan như kẻ thù, tương tự như Đức (dưới thời Cộng hòa Weimar và cả Đệ tam Đế chế), và coi đây là một “quốc gia phi pháp lý” do phe Hiệp ước dựng nên sau Thế chiến I để chia cắt lãnh thổ Đức và Nga. Trong giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến, Joseph Stalin thậm chí lo ngại về một cuộc tấn công phối hợp hai mặt trận từ Ba Lan và Nhật Bản. Nhiều cư dân của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Ukraine cũng vượt biên sang Ba Lan để phản đối chính sách tập thể hóa và nạn đói Holodomor.

Liên Xô hậu thuẫn cho các hoạt động ngầm của Đảng Cộng sản Ba Lan, Đảng Cộng sản Tây Belarus và Đảng Cộng sản Tây Ukraine. Ngược lại, Ba Lan cử mật vụ xâm nhập lãnh thổ Xô viết nhằm kích động nổi dậy. Điều này khiến Stalin gắn người Ba Lan tại Liên Xô với các nhóm dân tộc chủ nghĩa, chống đối và “khủng bố”. Trong Chiến dịch chống người Ba Lan, NKVD đã sát hại hơn 111.000 người Ba Lan và trục xuất nhiều gia đình sang Kazakhstan. Nỗi lo về xâm lược và gián điệp từ Ba Lan cũng được dùng để biện minh cho sự đàn áp nội bộ trong cuộc Đại thanh trừng thập niên 1930. Dẫu vậy, năm 1932, Liên Xô và Ba Lan vẫn ký hiệp ước bất tương xâm.

Đến năm 1939, một thỏa thuận mật giữa Đức Quốc xã và Liên Xô đã mở đường cho hai bên cùng chia cắt và xâm lược Ba Lan. Cuộc xâm lược Ba Lan của Liên Xô, do các đơn vị Hồng quân Ukraine dưới quyền Semyon Timoshenko tiến hành, giúp Liên Xô sáp nhập phần lớn Ba Lan phía đông vào Ukraine và Belarus. Hầu hết sĩ quan quân đội Ba Lan bị Liên Xô bắt giữ đều bị xử bắn, trong khi binh lính thường bị đưa vào hệ thống Gulag. Đặc biệt, Thảm sát Katyn năm 1940, khi hơn 20.000 sĩ quan Ba Lan bị sát hại và Liên Xô phủ nhận trách nhiệm suốt 50 năm, đã để lại vết thương sâu đậm trong quan hệ hai nước cho đến tận ngày nay.

Mặc dù vậy, sau khi Đức tấn công Liên Xô năm 1941, Ba Lan và Liên Xô trên danh nghĩa trở thành “đồng minh”. Năm 1944, Quân đội Nội địa Ba Lan (Armia Krajowa) phát động Khởi nghĩa Warsaw đúng lúc Hồng quân mở chiến dịch Lublin-Brest ở ngoại ô phía đông thành phố. Thế nhưng, quân Liên Xô cố tình dừng lại ở rìa thủ đô và không hành động trong nhiều tuần. Đồng thời, Liên Xô cũng không cho phép đồng minh phương Tây sử dụng sân bay của họ để tiếp tế cho quân khởi nghĩa. Hậu quả là quân Đức kịp tái tổ chức, đàn áp phong trào kháng chiến, phá hủy Warsaw và giết hại từ 150.000 đến 200.000 dân thường. Bi kịch này càng làm quan hệ Ba Lan – Nga thêm rạn nứt.

Sau Thế chiến II

Tại Hội nghị Yalta (tháng 2/1945), Joseph Stalin đặt Roosevelt và Churchill trước “sự đã rồi”: quân đội Liên Xô đang chiếm đóng Ba Lan, và chính quyền cộng sản thân Liên Xô đã nắm bộ máy cai trị. Liên Xô sáp nhập vùng Ba Lan phía đông (từng chiếm đóng giai đoạn 1939–1941) và tiến hành trục xuất hàng triệu người Ba Lan khỏi đây. Để bù lại, Ba Lan được trao các lãnh thổ ở phía tây sông Oder và Neisse – nơi từng có 9 triệu người Đức sinh sống. Stalin cho phép chính quyền cộng sản Ba Lan lập tức quản lý khu vực này, bất chấp chưa có sự công nhận quốc tế, nhằm ngăn người Đức quay về sau khi đầu hàng.

Hàng chục nghìn người Ba Lan bị giết hoặc đưa đi lưu đày, ví dụ như trong vụ lùng bắt Augustów. Stalin quyết tâm biến Ba Lan thành một quốc gia cộng sản phụ thuộc vào Liên Xô – Cộng hòa Nhân dân Ba Lan. Từ đó, Ba Lan trở thành một phần của khối Đông Âu. Hồng quân duy trì hiện diện thường trực: năm 1945 có tới 500.000 quân, sau đó giảm dần nhưng vẫn còn 40.000 quân đóng tại Ba Lan cho đến tận năm 1989. Năm 1945, các tướng lĩnh và cố vấn Liên Xô chiếm tới 80% đội ngũ sĩ quan của quân đội Ba Lan.

Các cuộc bầu cử bị gian lận, phe cộng sản với sự hậu thuẫn của Moskva nhanh chóng độc chiếm quyền lực. Sau cuộc bầu cử “ma” năm 1947, liên minh giữa Đảng Công nhân Ba Lan và Đảng Xã hội Ba Lan thân Liên Xô nắm toàn bộ đất nước. Phe đối lập bị bỏ tù, đưa ra xét xử dàn dựng hoặc phải lưu vong. Đảng Công nhân Ba Lan chính thức gia nhập Cominform năm 1947, gắn chặt Ba Lan vào quỹ đạo Xô viết.

Sự kiểm soát của Liên Xô chỉ giảm bớt sau cái chết của Stalin và giai đoạn “tan băng” dưới thời Władysław Gomułka, và chấm dứt hoàn toàn sau sự sụp đổ của chính quyền cộng sản ở Ba Lan cuối năm 1989. Dẫu vậy, quân đội Liên Xô chỉ rút hết khỏi Ba Lan năm 1993. Trong suốt thời kỳ này, Ba Lan bị chi phối nặng nề qua khối Hiệp ước Warsaw: quân đội Ba Lan tham gia cả cuộc xâm lược Tiệp Khắc năm 1968 nhằm đàn áp Mùa xuân Praha.

Cuối thập niên 1970, phong trào phản kháng chính trị tại Ba Lan trỗi dậy mạnh mẽ, đặc biệt với sự hình thành của công đoàn đối lập Đoàn kết (Solidarność) sau cuộc đình công tại xưởng đóng tàu Lenin năm 1980. Báo chí nhà nước Liên Xô gọi Thỏa thuận Gdańsk – văn kiện hợp pháp hóa Đoàn kết – với giọng điệu hệt như khi lên án cải cách ở Tiệp Khắc. Dưới sức ép từ Moskva, chính quyền Ba Lan buộc phải ban bố thiết quân luật dưới thời Wojciech Jaruzelski.

Ảnh hưởng của Liên Xô tại Ba Lan chỉ thật sự kết thúc với Thỏa thuận Bàn tròn năm 1989 mở đường cho bầu cử tự do, tiếp nối bởi làn sóng Cách mạng 1989 lật đổ hàng loạt chính quyền cộng sản Đông Âu, và cuối cùng là sự giải thể của Hiệp ước Warsaw.

Hậu cộng sản

Quan hệ Ba Lan – Nga hiện đại bắt đầu từ sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ: năm 1989 tại Ba Lan (công đoàn Đoàn kết và Thỏa thuận Bàn tròn Ba Lan) và năm 1991 tại Nga (sự tan rã của Liên Xô). Với chính phủ dân chủ mới sau bầu cử năm 1989, Ba Lan giành lại trọn vẹn chủ quyền, trong khi Liên Xô tan rã thành 15 quốc gia độc lập, trong đó có Liên bang Nga.

Từ đó đến nay, quan hệ Ba Lan – Nga liên tục trải qua những thăng trầm. Một trong những vấn đề lặp đi lặp lại là việc Ba Lan tách hẳn khỏi phạm vi ảnh hưởng của Nga (gia nhập NATO và Liên minh châu Âu) và theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, bao gồm thiết lập quan hệ mật thiết với các quốc gia hậu Xô viết. Chẳng hạn, Ba Lan là nước đầu tiên công nhận độc lập của Ukraine, và việc Ba Lan ủng hộ Cách mạng Cam năm 2004 chống lại ứng viên tổng thống thân Nga Viktor Yanukovych ở Ukraine đã gây ra khủng hoảng tạm thời trong quan hệ Ba Lan – Nga.

Đôi khi, quan hệ xấu đi vì những ký ức lịch sử đau thương, như khi các chính trị gia Ba Lan yêu cầu Nga xin lỗi vì cuộc xâm lược năm 1939, vì thảm sát Katyn (mà giới học giả quốc tế coi là tội diệt chủng, trong khi giới chức Nga chỉ gọi là tội ác chiến tranh), hoặc vì nhiều thập niên chiếm đóng. Ngược lại, phía Nga thường chỉ trích người Ba Lan là “không biết ơn” vì đã được Hồng quân “giải phóng” khỏi Đức Quốc xã. Trong thập niên 1990, việc chính quyền và các tổ chức dân sự Ba Lan hỗ trợ cho phong trào ly khai Chechnya cũng khiến Nga tức giận.

Năm 2009, chính phủ và truyền thông Nga lại gây tranh cãi khi đưa ra cáo buộc rằng Ba Lan – vốn từng ký hiệp ước bất tương xâm với cả Liên Xô và Đức Quốc xã đầu thập niên 1930 – đã góp phần vào việc chia cắt Tiệp Khắc sau Hiệp định Munich, thậm chí còn ám chỉ Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan đã có ý định liên minh với Đức và Nhật chống lại Liên Xô trước Thế chiến II. Những cáo buộc này bị giới chính trị gia và ngoại giao Ba Lan kịch liệt bác bỏ, coi đó là một nỗ lực xuyên tạc lịch sử.

Ngoài ra, nhiều vấn đề khác cũng ảnh hưởng đến quan hệ hiện đại, như việc thiết lập chế độ thị thực cho công dân Nga, kế hoạch đặt hệ thống phòng thủ tên lửa NATO tại Ba Lan, dự án đường ống Nord Stream 1 (đe dọa an ninh năng lượng của Ba Lan, vốn phụ thuộc hơn 90% dầu và 60% khí đốt từ Nga), vai trò của Ba Lan trong quan hệ EU – Nga, hay các biện pháp cấm vận kinh tế (như Nga cấm nhập khẩu nông sản Ba Lan). Sau khi Liên Xô tan rã, với việc Litva, Ukraine và Belarus giành độc lập, phần lớn biên giới Ba Lan – Nga được thay thế bằng biên giới với ba nước này, song Ba Lan vẫn còn đường biên dài 210 km giáp tỉnh Kaliningrad của Nga.

Theo một khảo sát năm 2013 của BBC World Service, chỉ 19% người Ba Lan có cái nhìn tích cực về ảnh hưởng của Nga, trong khi 49% có cái nhìn tiêu cực. Sau năm 2017, phần lớn các tượng đài chiến tranh Xô viết ở Ba Lan đã bị dỡ bỏ theo chính sách “phi cộng sản hóa”.

Chiến tranh Nga – Gruzia 2008

Trong cuộc xâm lược Gruzia năm 2008, Tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński đã bay tới thủ đô Tbilisi để thể hiện sự ủng hộ. Ông phát biểu trước quốc hội Gruzia, cảnh báo rằng Nga đang tìm cách khôi phục quyền bá chủ trong khu vực bằng vũ lực. Sau đó, chính phủ Ba Lan dẫn đầu nhóm các nước Đông Âu đề xuất trừng phạt Nga, khiến Moskva tức giận.

Thảm họa máy bay năm 2010

Ngày 10/4/2010, chiếc máy bay Tu-154 của Không quân Ba Lan chở Tổng thống Lech Kaczyński cùng nhiều quan chức cấp cao đã rơi tại Smolensk (Nga), khiến toàn bộ 96 người trên máy bay thiệt mạng. BBC nhận định vụ việc này có thể tác động mạnh đến quan hệ Ba Lan – Nga, đặc biệt nếu cuộc điều tra thiếu minh bạch, dễ làm gia tăng nghi ngờ ở Ba Lan.

Tuy nhiên, theo The Wall Street Journal, tuyên bố chung của Thủ tướng Vladimir Putin và Donald Tusk về vụ Katyn ngay trước thảm họa, cùng cách Nga ứng xử sau đó, đã tạo ra một cơ hội hiếm hoi để hai quốc gia xích lại gần nhau, chấm dứt hàng thế kỷ đối đầu.

Trung tâm đối thoại năm 2011

Tháng 12/2010, trong chuyến thăm Ba Lan, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev và Tổng thống Ba Lan Bronisław Komorowski đã nhất trí thành lập các Trung tâm Đối thoại và Hiểu biết Ba Lan – Nga. Phía Ba Lan mở một trung tâm để thúc đẩy hợp tác, đặc biệt giữa thanh niên hai nước.

Nga cũng thành lập một tổ chức tương tự mang tên Trung tâm Nga – Ba Lan vì Đối thoại và Hiểu biết, nhưng hoạt động của hai bên không hợp tác chặt chẽ. Giám đốc Yuri Bondarenko của phía Nga nhiều lần đưa ra những quan điểm gây tranh cãi về quan hệ song phương, thậm chí còn tổ chức đưa sinh viên Ba Lan tới Crimea – vùng lãnh thổ Nga sáp nhập trái phép từ Ukraine – dù biết rằng hành động này vi phạm luật Ba Lan.

Vụ bắn rơi máy bay năm 2014

Sau vụ bắn rơi chuyến bay MH17 của Malaysia Airlines trên vùng ly khai Donetsk (Ukraine) tháng 7/2014, chính phủ Ba Lan đã hủy bỏ chương trình giao lưu văn hóa “Năm Ba Lan tại Nga” và “Năm Nga tại Ba Lan” vốn dự kiến tổ chức năm 2015.

Hệ quả từ việc Nga sáp nhập Crimea

Sau khi Nga sáp nhập Crimea và hỗ trợ lực lượng ly khai ở miền Đông Ukraine, Ba Lan liên tục yêu cầu NATO triển khai thêm lực lượng thường trực tại lãnh thổ mình. Ba Lan cũng trở thành một trong những nước ủng hộ mạnh mẽ nhất các lệnh trừng phạt của EU chống lại Nga.

Tháng 7/2014, Nga đáp trả bằng việc cấm nhập khẩu trái cây và rau quả Ba Lan, lấy lý do dư lượng thuốc trừ sâu vượt mức cho phép. Đây là cú đòn kinh tế nặng nề, bởi Nga là thị trường xuất khẩu táo lớn nhất của Ba Lan, mang về hơn 1 tỉ euro mỗi năm.

Kể từ sau biến cố Crimea, từ 60% đến 80% người dân Ba Lan bày tỏ lo ngại về khả năng xảy ra một cuộc xung đột với Nga, nhất là khi tỉnh Kaliningrad – căn cứ quân sự trọng yếu của Nga – nằm ngay sát biên giới Ba Lan.

Tranh cãi về lịch sử

Cả Ba Lan và Nga đều nhiều lần cáo buộc nhau xuyên tạc lịch sử. Nga thường xuyên chỉ trích Ba Lan không tôn trọng những binh sĩ Hồng quân Liên Xô đã hy sinh trong Thế chiến II tại lãnh thổ Ba Lan. Năm 2017, Moskva lên án việc Ba Lan ngăn Nga tham gia dự án quốc tế trùng tu bảo tàng Thế chiến II tại Sobibór – nơi từng là trại hủy diệt Sobibor – và cho rằng Ba Lan đang “áp đặt phiên bản lịch sử riêng của mình”.

Ngược lại, Ba Lan cáo buộc Nga “xuyên tạc lịch sử vô hạn độ”. Đặc biệt, từ năm 2014, khi Tổng thống Vladimir Putin ký luật cấm so sánh tội ác của Liên Xô với tội ác của Đức Quốc xã, nhiều người Ba Lan cho rằng động thái này nhằm xóa bỏ những ký ức đau thương mà họ từng phải chịu dưới tay Liên Xô. Ba Lan lo ngại việc Nga sử dụng lịch sử như công cụ chính trị có thể đe dọa an ninh quốc gia của họ.

Tranh chấp khí đốt

Nhằm tiến tới thoát hoàn toàn phụ thuộc năng lượng vào Nga, ông Piotr Wozniak – Chủ tịch Tập đoàn dầu khí quốc doanh PGNiG – tuyên bố năm 2019: “Chiến lược của chúng tôi là quên đi các nhà cung cấp phương Đông, đặc biệt là Gazprom.”

Năm 2020, Tòa trọng tài Stockholm ra phán quyết điều chỉnh giá khí đốt trong hợp đồng dài hạn giữa PGNiG và Gazprom, yêu cầu tính theo giá thị trường Tây Âu thay vì gắn với giá dầu. Phán quyết được áp dụng hồi tố từ tháng 11/2014, buộc Gazprom phải hoàn trả khoảng 1,5 tỉ USD cho PGNiG. Hợp đồng liên quan đến đường ống Yamal ký từ 1996, cung cấp tối đa 10,2 tỉ m³ khí/năm (tối thiểu 8,7 tỉ m³), hết hạn năm 2022.

Sau khủng hoảng năng lượng toàn cầu năm 2021, PGNiG yêu cầu đàm phán lại giá. Nhưng đến tháng 4/2022, Nga ngừng cung cấp khí đốt cho Ba Lan và Bulgaria do hai nước từ chối thanh toán bằng đồng rúp. Khi đó, Gazprom cung cấp tới 50% nhu cầu khí đốt của Ba Lan. Tuy nhiên, Ba Lan cho biết kho dự trữ khí vẫn còn 76% và chưa cần dùng tới.

Cuộc xâm lược Ukraine năm 2022

Trước khi Nga tấn công Ukraine, Thủ tướng Ba Lan Mateusz Morawiecki cảnh báo rằng Putin đang tìm cách khôi phục Đế chế Nga, đồng thời kêu gọi châu Âu đoàn kết ngăn chặn. Sau khi Putin công nhận hai vùng Donetsk và Luhansk độc lập ngày 22/2/2022, Morawiecki gọi đó là “hành động xâm lược Ukraine” và thúc giục EU áp đặt trừng phạt mạnh mẽ, đặc biệt phản đối dự án đường ống Nord Stream 2 mà ông cho là “nguy hiểm và có hại”.

Ngay khi cuộc chiến bùng nổ ngày 24/2, Ba Lan cùng EU áp lệnh trừng phạt Nga. Đáp trả, Moskva đưa toàn bộ EU vào danh sách “các quốc gia không thân thiện”. Morawiecki viết trên Twitter: “Chúng ta phải ngay lập tức đáp trả hành động tội ác của Nga. Châu Âu và thế giới tự do phải chặn đứng Putin.”

Ngày 26/2, Liên đoàn Bóng đá Ba Lan tuyên bố không tham dự trận play-off World Cup với Nga tại Moskva. Sau đó, Ba Lan trục xuất nhiều nhà ngoại giao Nga.

Ngày 9/5/2022 (Ngày Chiến thắng), Đại sứ Nga Sergey Andreev bị người biểu tình Ukraine hắt sơn đỏ khi tới nghĩa trang quân sự Xô viết ở Warsaw. Đám đông hô vang “kẻ giết người”, “phát xít”. Bộ Ngoại giao Nga gọi đây là hành động của “tân phát xít trẻ” và yêu cầu Ba Lan bảo đảm an ninh. Bộ trưởng Nội vụ Ba Lan Mariusz Kaminski thì bênh vực, nói rằng đó là hành động bộc phát chính đáng của những phụ nữ Ukraine có chồng đang chiến đấu ngoài mặt trận.

Một khảo sát tháng 6/2022 cho thấy chỉ 2% người Ba Lan có thiện cảm với Nga, trong khi 97% có cái nhìn tiêu cực – tỷ lệ chống Nga cao nhất trong tất cả các quốc gia được khảo sát.

Tháng 9/2022, Ba Lan cùng Litva, Latvia và Estonia đóng cửa biên giới với công dân Nga có visa Schengen. Tháng 10/2022, Thượng viện Ba Lan nhất trí tuyên bố Nga là “nhà nước khủng bố”.

Tháng 11/2022, Ba Lan bắt đầu xây dựng hàng rào biên giới với tỉnh Kaliningrad nhằm ngăn Nga sử dụng tuyến này để đưa lậu người di cư châu Phi và châu Á vào châu Âu.

Năm 2023, Ba Lan tịch thu các tòa nhà thuộc sở hữu Nga ở Warsaw vì Nga không trả tiền thuê theo phán quyết tòa án. Đáp lại, Nga đóng cửa lãnh sự quán Ba Lan ở Smolensk.

Ngày 10/9/2025, lần đầu tiên một thành viên NATO bắn hạ vũ khí trong chiến tranh Ukraine: Ba Lan đã bắn rơi nhiều máy bay không người lái Nga xâm nhập không phận trong đợt tấn công quy mô lớn vào Ukraine. Tổng cộng 19 thiết bị bay vượt biên, trong đó những chiếc đe dọa bị tiêu diệt. Thủ tướng Donald Tusk gọi đây là “hành động khiêu khích lớn”, viện dẫn Điều 4 Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương để tham vấn khẩn cấp với NATO. Một ngôi nhà ở Wyryki-Kolonia, cách biên giới Ukraine 16 km, bị phá hủy nặng. Không có thương vong. EU và NATO coi đây là một sự leo thang chiến tranh.

Tình báo và ảnh hưởng Nga tại Ba Lan

Cuốn Những nền tảng địa chính trị (1997) của nhà tư tưởng Nga Aleksandr Dugin đề xuất rằng Ba Lan, Latvia và Litva sẽ có “quy chế đặc biệt” trong phạm vi ảnh hưởng Á – Âu của Nga.

Năm 1996, Thủ tướng Ba Lan Józef Oleksy phải từ chức vì liên hệ với điệp viên Nga Vladimir Alganov. Đến năm 2004, tình báo Ba Lan ghi âm được Alganov bàn chuyện hối lộ các chính trị gia cấp cao.

Tháng 5/2023, Quốc hội Ba Lan thông qua luật lập ủy ban điều tra ảnh hưởng của Nga trong giai đoạn 2007–2022.

Trong các cuộc tập trận quân sự, Nga nhiều lần mô phỏng tấn công Ba Lan. Zapad 2009 thậm chí diễn tập kịch bản tấn công hạt nhân vào Ba Lan và đàn áp một “cuộc nổi dậy” của người gốc Ba Lan tại Belarus.

Thương mại

Năm 2021, Ba Lan xuất khẩu sang Nga 8,83 tỉ USD hàng hóa (sản phẩm chủ yếu: máy tính). Nga xuất sang Ba Lan 12,7 tỉ USD (chủ yếu là dầu thô). Từ 1995 đến 2021, xuất khẩu Ba Lan sang Nga tăng trung bình 7,84%/năm, còn xuất khẩu Nga sang Ba Lan tăng 7,92%/năm.

Tuy nhiên, các lệnh trừng phạt EU và biện pháp trả đũa từ Nga sau năm 2022 đã khiến nhập khẩu dầu khí Nga vào Ba Lan giảm mạnh, tác động lớn đến cán cân thương mại song phương.

Rate this post

DONATE

Toàn bộ tiền donate sẽ được dùng để:

  • Nghiên cứu – Mua tài liệu, thuê dịch giả, kỹ thuật viên.
  • Duy trì máy chủ và bảo mật website
  • Mở rộng nội dung – Thêm nhiều chủ đề, bản đồ, minh họa

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM