Hầu Tông Huy (侯宗辉) – Đăng trên chuyên trang Guoxue
Tóm tắt nội dung
Vấn đề lạm phát vào buổi giao thời giữa Tây Hán và Đông Hán hết sức nghiêm trọng. Khi ấy, nhóm Đậu Dung đang trấn thủ năm quận Hà Tây đã căn cứ tình hình thế cuộc mà lần lượt ban hành và thực thi một loạt biện pháp quản trị hữu hiệu, khiến Hà Tây xuất hiện diện mạo xã hội mới: dân chúng giàu có, kho tàng sung túc. Sự biến đổi nổi bật ấy trở nên đặc biệt trong giai đoạn quá độ rối ren, giá cả leo thang của thời chuyển tiếp Hai Hán. Trong đó, “chế độ lương mới cho quan lại” lấy thóc làm bổng (lấy cốc làm bổng) không chỉ kiềm chế tốt sự trầm trọng thêm của lạm phát, mà còn đóng vai trò then chốt trong biến thiên kinh tế – xã hội Hà Tây đương thời, đồng thời tạo ảnh hưởng quan trọng tới chế độ chi trả bổng lộc “tiền – cốc mỗi thứ một nửa” của Đông Hán.
Từ khóa: buổi giao thời Hai Hán; nhóm Đậu Dung; lạm phát; quản trị; ảnh hưởng xã hội
Lạm phát là một vấn đề kinh tế mang tính phổ quát toàn cầu. Lạm phát không phải chỉ đặc hữu của thời đại lưu thông tiền giấy; ngay trong thời dùng tiền kim loại cũng tồn tại. Những năm gần đây, vấn đề lạm phát thời cổ đại Trung Quốc dần được giới học thuật quan tâm; lạm phát đời Hán thường được coi là mở đầu cho vấn đề lạm phát trong xã hội cổ đại nước ta. Mà buổi giao thời Hai Hán lại đúng vào lúc vương quyền thay đổi, binh đao liên miên, tai họa dồn dập—trong giai đoạn quá độ này hiện tượng lạm phát càng mang ý nghĩa điển hình. Khi ấy, nhóm Đậu Dung trấn thủ năm quận Hà Tây tuy yên ổn một góc, nhưng vẫn bị vấn đề lạm phát làm cho khốn đốn. Do góc độ nghiên cứu khác nhau, trong các thành quả học thuật hiện có chưa thấy chuyên môn bàn riêng về việc này.[①] Bài viết này dựa vào tư liệu Hán giản làm trung tâm, kết hợp văn hiến truyền thế, thử tiếp cận sâu thêm vấn đề từ góc nhìn kinh tế học.
I. Lạm phát buổi giao thời Hai Hán và cách biểu hiện của nó
“Lạm phát” là một thuật ngữ kinh tế học. Tân Palgrave – Đại từ điển Kinh tế học định nghĩa: “Lạm phát là một quá trình giá cả tăng lên liên tục, hay nói tương đương, là một quá trình tiền tệ liên tục bị mất giá.” Tức là, trong một thời đoạn nhất định, mặt bằng giá cả tăng lên mang tính phổ biến và liên tục; trên thị trường, lượng tiền quá nhiều đuổi theo lượng hàng hóa ít ỏi, làm tiền tệ mất giá, khiến sức mua xã hội suy giảm—hiện tượng kinh tế ấy gọi là lạm phát. Về biểu hiện, giá cả tăng liên tục tức tiền tệ liên tục mất giá chính là đặc trưng cơ bản của lạm phát. Vào buổi Hai Hán lưu hành tiền kim loại, đặc trưng lạm phát lại càng rõ.
Từ khi Vương Mãng nhiếp chính đã mở màn cải cách chế độ tiền tệ, số lượng tiền tệ lưu thông trên thị trường tăng rõ rệt so với trước. Hán thư – Thực Hóa chí chép: “Lại chế đại tiền, đường kính một tấc hai phân, nặng mười hai chu, văn rằng ‘Đại tiền năm mươi’. Lại chế khế đao, thác đao. Khế đao, vành như đại tiền, thân như đao, dài hai tấc, văn rằng ‘Khế đao năm trăm’. Thác đao, lấy vàng khảm chữ, nói ‘Một đao trị năm nghìn’. Cùng tiền Ngũ thù cộng bốn phẩm, đồng hành.” Rồi “bèn bãi thác đao, khế đao và tiền Ngũ thù, đổi làm các loại vàng, bạc, quy, bối, tiền, bố, đặt tên ‘bảo hóa’… sáu danh, hai mươi tám phẩm.” Sau nữa lại “bãi đại, tiểu tiền, cải làm ‘hóa bố’… nặng hai mươi lăm chu, trị giá ‘hóa tuyền’ hai mươi lăm”, “cùng ‘hóa bố’ hai phẩm đồng hành”. Theo Hán thư – Thực Hóa chí: “Từ Hán Vũ Đế niên hiệu Nguyên Thú năm thứ năm (118 TCN) Tam quan sơ chú tiền Ngũ thù, đến thời Bình Đế niên hiệu Nguyên Sơ, thành tiền hai trăm tám mươi ức vạn dư.” 280 ức[②] đồng Ngũ thù ban đầu cùng đại tiền, thác đao của Vương Mãng đồng hành. Về sau, Vương Mãng tuy bãi dùng tiền Ngũ thù, nhưng “bách tính quen yên với tiền Ngũ thù của Hán; tiền của Mãng to nhỏ hai cỡ khó biết, lại nhiều lần biến cải khiến người ta không tin, nên đều riêng dùng tiền Ngũ thù để mua bán”[③]. Căn cứ di vật lưu truyền, số lượng tiền tệ đúc – phát hành thời Tân của Vương Mãng ắt không ít: như năm 1983, tại Huyện Dịch, Hà Bắc (thị trấn Lăng Vân) xuất thổ một mẻ cổ tiền nặng khoảng 8,8 kg; trừ 1 đồng Bán lạng Tây Hán, 3 đồng Ngũ thù Tây Hán ra, còn lại đều là Hóa tuyền, cộng 2.605 đồng. Năm 1984, tại huyện An Khang, Thiểm Tây, giữa thành xuất thổ Hóa tuyền nặng 52,5 kg, chỉ có 1 đồng Ngũ thù, còn lại đều là Hóa tuyền. Năm 1985, tại hương Trương Than, thành phố An Khang xuất thổ hơn 10 kg Hóa tuyền, trong đó không lẫn loại tiền khác.[④] Vậy nên, vào lúc giao thời Hai Hán, số lượng tiền tệ lưu thông trên thị trường ắt rất lớn.
Việc Vương Mãng cải cách tiền tệ liên miên lại kích phát nạn tư đúc lan tràn, ở mức độ nào đó cũng làm tăng cung tiền. Dẫu triều Tân của Vương Mãng “đem tội tư đúc tiền đến mức tử hình, và ai phá hoại bảo hóa thì đày đi bốn di”, nhưng vẫn là “kẻ phạm pháp nhiều, không thể thi hành hết”[⑤], “dân phạm tội đúc tiền, năm người cùng chịu tọa, … tống đến Chung quan, tính bằng mười vạn mà kể”[⑥]. Hành vi tư đúc khó dẹp, số lượng tiền đúc trong dân không thể xem thường, ào ào chảy vào thị trường, ắt làm tăng lượng tiền.
Thời Tân của Vương Mãng, mức độ mất giá của tiền tệ cũng rất nghiêm trọng. Chủ yếu biểu hiện ở hai phương diện. Một là phát hành cái gọi là “đại tiền”, tức trọng lượng đồng tiền có tăng nhưng mệnh giá tăng nhiều hơn nữa, để mệnh giá vượt xa giá trị kim loại làm nên đồng tiền. Như “đại tiền” Vương Mãng phát hành nặng gấp 2,4 lần tiền Ngũ thù, nhưng định giá bằng 50 lần tiền Ngũ thù, tức tương đương mất giá 19/20.[⑦] Lại như mỗi đồng “tiểu bố” trị giá ??? ba đồng, trọng lượng chỉ tăng chừng 14 lần mà giá trị lại tăng đến hơn 30 lần; một đồng “Đại hoàng bố thiên” lại trị giá nghìn đồng “Tiểu tuyền”, trọng lượng chỉ tăng chừng 23 lần mà giá trị tăng đến hơn 300 lần.[⑧] Hai là đúc tiền thể nhỏ, giảm trọng lượng. Hàm lượng kim loại thực tế của tiền tệ thấp xa so với trọng lượng danh nghĩa, khiến giá trị thực và sức mua đều suy giảm mạnh. Trong số tiền tệ thời Tân khai quật được, loại “tiểu tiền” bị cắt viền, mài viền khá phổ biến. Như năm 1981, tại Huyện Huy, Cam Túc từng xuất thổ hơn một vạn đồng cổ tiền, trong đó có số lớn Hóa tuyền thời Tân bị cắt viền, đường kính 1,4–1,8 cm.[⑨] Năm 1984, tại hương Chu Nguyên, huyện Bảo Kê, Thiểm Tây xuất thổ một loạt tiền thời Vương Mãng, Hóa tuyền bị cắt viền, mài viền chiếm 6,7% tổng số, trọng lượng bình quân 1,83 g.[⑩] Có thể thấy, trong lĩnh vực lưu thông khi ấy tồn tại số lượng không nhỏ những đồng tiền giảm trọng. Khi các “tiểu tiền” giảm trọng ấy tràn ngập thị trường, tất yếu đẩy giá cả tăng.
Trái lại, hiện thực xã hội lại là tai họa liên miên, chiến loạn chẳng dứt, nhu cầu tiền tệ thực tế có xu hướng giảm. Triều Tân của Vương Mãng hầu như đi kèm thiên tai: Hán thư – Vương Mãng truyện hạ chép: “Từ khi lên ngôi, âm dương chưa hòa, gió mưa không đúng mùa, thường gặp hạn hán, sâu mọt làm tai, lúa thóc hao hụt, bách tính khổ vì đói.” “Từ cuối thời Vương Mãng, thiên hạ hạn sương nhiều năm, trăm cốc chẳng thành.”[11] Ngoài thiên tai, nhân họa dằng dặc. Tân triều lúc thì chinh phạt tứ di, lúc thì dẹp giặc cướp. Năm năm chiến loạn, ôn dịch khiến “hộ tịch thiên hạ giảm quá nửa”[12]. Dân số sụt mạnh, sản xuất bị phá hoại, cung hàng hóa thiếu hụt, lượng tiền thị trường cần thiết tất giảm theo. Nhưng nhìn khắp thời kỳ này, lượng cung tiền trên thị trường vượt xa lượng cầu. Thực trạng trái ngược ấy khiến lạm phát khó tránh khỏi.
Mà nhóm Đậu Dung trấn thủ Hà Tây vào lúc giao thời Hai Hán, trên thừa sự diệt vong của Tân, dưới nối sự thống nhất thiên hạ của Đông Hán, vấn đề lạm phát tự nhiên cũng là một nan đề kinh tế – xã hội mà họ phải đối mặt. Dưới đây căn cứ giá cả ghi trong Hán giản, chọn giá một số hàng hóa quanh năm Kiến Vũ thứ 2 làm cơ số, đồng thời so sánh dọc với giá các hàng cùng loại thời trung – hậu kỳ Tây Hán, để phác thảo biến động giá cả khi ấy.
(1) Giá một số hàng hóa quanh năm Kiến Vũ 2 (năm 26)
1) Giá ngũ cốc như đại mạch, cốc
- “Ân mua đại mạch hai thạch nộp cho Nghiệp, trị sáu nghìn; lại tới Bắc Bộ, vì Nghiệp bán (mua) thịt mười cân, trị một thạch cốc, mỗi thạch ba nghìn, cộng cả …”
— Cư Tân[13] EPF22·13 - “Ân ở Lộc Đắc lấy tiền nộp cho Nghiệp, mua cốc, quyết giá mỗi thạch bốn nghìn.”
— Cư Tân EPF22·16
Ví dụ 1, 2 đều trích từ “Sổ việc ‘Hầu Túc Quân sở trách Khấu Ân’ tháng Chạp năm Kiến Vũ 3 (27)”[14], tập sách ấy chép chuyện xảy ra tháng Chạp năm Kiến Vũ 2. Vậy nên giá đại mạch, cốc ghi trong đó phản ánh trung thực vật giá thị trường khi ấy. Trong đó, đại mạch một thạch 3.000 tiền. Cốc có hai mức giá: ở khu vực Giáp Khư là 3.000 tiền/thạch; ở chợ huyện Lộc Đắc là 4.000 tiền/thạch.
2) Giá bò
- “Thương tức xuất một con bò, sắc vàng, đặc, răng tám tuổi, giá bình bằng sáu mươi thạch, cộng giao (đổi) cốc mười lăm thạch là bảy mươi lăm thạch. Dục xuất một con bò, sắc đen, đặc, răng năm tuổi, giá bình bằng sáu mươi thạch, cộng giao …”
— Cư Tân EPF22·4–5
Ví dụ 3 cũng thuộc “Sổ ‘Hầu Túc Quân sở trách Khấu Ân’ tháng Chạp năm Kiến Vũ 3”, tức vào cuối năm Kiến Vũ 2 một con bò trị giá khoảng tương đương 60 thạch cốc; theo giá cốc ở khu vực Cư Diên khi ấy (tức ví dụ 1) thì một con bò bằng 180.000 tiền.
3) Giá cá
Theo sổ “Hầu Túc Quân sở trách Khấu Ân” tháng Chạp năm Kiến Vũ 3, Túc Quân thuê Khấu Ân chở 5.000 con cá từ Giáp Khư đến huyện Lộc Đắc để bán; khi xuất phát ước giá 5.000 con cá trị 400.000 tiền, tức một con 80 tiền. Nhưng thực tế đến chợ Lộc Đắc, Khấu Ân cùng một con bò đen bán cộng được 320.000 tiền. Vậy giá cá ở chợ Lộc Đắc ước bao nhiêu? Lúc lên đường, bò đen giá 60 thạch cốc (xem ví dụ 3), mà ở Lộc Đắc giá cốc 4.000 tiền/thạch, vậy con bò bán được 240.000 tiền; còn lại 5.000 con cá bán 80.000 tiền, tức mỗi con 16 tiền.
4) Giá thịt và giá rượu
Trong ví dụ 1 có câu “thịt mười cân, trị một thạch cốc, mỗi thạch ba nghìn”. Tức là vào cuối năm Kiến Vũ 2, một cân thịt tương đương một đấu cốc; theo giá cốc quy đổi, một cân thịt trị 300 tiền.
Trong Cư Diên tân giản còn hai mảnh giản liên quan đến giá thịt cũng thuộc trước – sau năm Kiến Vũ 2:
- “Năm mươi cân thịt, trị bảy thạch năm đấu.
Hai thạch ba đấu rượu, trị bốn thạch sáu đấu.
Cộng trị mười hai thạch một đấu.”
— Cư Tân EPF22·237A
(Mặt B) “Hầu trưởng Đậu □
Hầu trưởng Vương Cung
Hầu trưởng Mạnh Hiến”
— Cư Tân EPF22·237B
- “Hai mươi cân thịt trị ba thạch cốc; mạch ít là một thạch bảy đấu; Tôn Thôn (次吞) khi ấy còn thấy □□; bộ Hầu trưởng Tôn Viễn, Tần Cung gánh năm đấu (cốc).”
— Cư Tân EPT65·99
Ở ví dụ 4 và 5, một cân thịt đều trị một đấu rưỡi cốc; xét theo tỷ lệ này thì hiếm thấy ở trung – hậu kỳ Tây Hán, chỉ có thể thuộc thời Tân của Vương Mãng và thời Đậu Dung. Mặt B của ví dụ 4 ghi tên người lĩnh thịt, rượu, dấu “□” là ký hiệu gạch nối; trong đó “Hầu trưởng Vương Cung” thấy rất rõ. Ông Lý Chấn Hồng cho rằng Vương Cung vào năm Canh Thỉ 3 (25) từng giữ chức Hầu trưởng Tôn Viễn.[15] Trên giản có “Hầu trưởng Mạnh Hiến” và họ tên Tần Cung, Thời Thượng xuất hiện ở ví dụ 5 đều thấy trong giản năm Kiến Vũ 3 (27), Kiến Vũ 4 (28), như:
- “… Hầu trưởng Mạnh Hiến, Tuý trưởng (燧长) Tần Cung đều biết rõ tình trạng, ghi đến, nghiệm hỏi nơi minh bạch mà nói.”
— Cư Tân EPF22·191 - “Ngày mồng một tháng ba năm Kiến Vũ 4, là ngày Đinh Dậu sau ngày Nhâm Ngọ sóc; Vạn Tuế Hầu trưởng Hiến□, Tuý ● kính triệu Cung đến trị sở trước để chứng cổng thành nha môn của huyện.”
— Cư Tân EPF22·328 - “… Nghiệm hỏi Cung, lời rằng: Thượng tạo (cấp bậc) ở Cư Diên, làng Lâm Nhân, hai mươi tám tuổi, họ Tần. Hơn mười năm trước cha mẹ mất, sống khác nhà với anh ruột đồng sinh; vào giữa tháng 5 năm Canh Thỉ 3 được bổ làm Tuý trưởng Tôn Viễn của Giáp Khư.”
— Cư Tân EPF22·330 - “Đại thành tắc, thuộc lại của Cung là Duyện (尉) Chu Khanh, Hầu trưởng Vương Cung, tức Tần Cung đến tuý sở nhậm việc; tại tuý có một cái trống, nhận trợ lại Thời Thượng giữ. Trống thường đặt ở cửa đông tường nội của ấp; Duyện Khanh sai chư lại sớm tối đánh trống, cộng hai năm. Duyện bãi đi, Hầu trưởng Cung bị bãi miễn, trống vẫn ở tuý. Cung vào giữa tháng tám năm Kiến Vũ 3 …”
— Cư Tân EPF22·331
Ví dụ 6 thuộc “Án chết lầm ngựa con năm Kiến Vũ 3 (EPF22·187–201)”[16]; ví dụ 7–9 thuộc “Án Tuý trưởng Tần Cung làm mất trống năm Kiến Vũ 4 (EPF22·328–332)”[17]. Từ đó biết Tần Cung vào tháng 5 năm Canh Thỉ 3 được bổ làm Tuý trưởng Tôn Viễn; “cộng hai năm”, tức hai năm sau (Kiến Vũ 2), Hầu trưởng Vương Cung bị bãi miễn. Trong ví dụ 4 có “Hầu trưởng Vương Cung”, vậy mảnh giản ấy ắt không muộn hơn Kiến Vũ 3. Ví dụ 5 tuy không định được niên đại cụ thể, nhưng căn cứ giá thịt trùng nhau, nhân vật lặp lại, thì cũng như ví dụ 4, thuộc đầu thời Kiến Vũ.
Từ ví dụ 4 thấy “rượu hai thạch ba đấu, trị bốn thạch sáu đấu”, tức một thạch rượu trị hai thạch ba đấu cốc; theo giá cốc vùng Cư Diên mà quy đổi, mỗi thạch rượu là 6.900 tiền.
(2) So sánh giá đầu thời Kiến Vũ với giá các hàng cùng loại trung – hậu kỳ Tây Hán
1) So với giá đại mạch, cốc và các loại lương thực
- “Xuất tiền 110 để mua đại mạch một thạch, mỗi thạch 110.”
— Hợp hiệu[18] 214·4
Ví dụ 10, đại mạch 110 tiền/thạch. Tuy khó định niên đại chính xác, nhưng giá ấy không khác mấy so với đầu thời Vương Mãng. Như:
- “Hầu sử Tống Quân Trường, nộp mạch hai thạch chín đấu, trị 230 tuyền, hoàn trả cho Phụng Trường.”
— Đôn[19] 362 - “□□□□□ Ích □ muốn đi gấp, e trâu không dùng được, nay phải mua mục túc (苜蓿) để nuôi, mục túc rất đắt, một bó ba tuyền. … Chợ cốc rất đắt □□□□□□□□□□□□□□, mạch hơn 130, lúc tây mới hạ giá □□□□□□□□.”
— Đôn 239A
Hai mảnh giản 11, 12 đều thuộc thời Tân của Vương Mãng.[20] Mảnh 11: một thạch mạch khoảng 79,3 tiền. Mảnh 12: trong tình trạng “cốc rất đắt”, mỗi thạch mạch chừng 130 tiền. Như vậy, vào cuối năm Kiến Vũ 2, giá đại mạch cao gấp hơn 30 lần so với thời Tân.
Trong ghi chép Hán giản, “cốc” thường là tổng xưng của nhóm ngũ cốc. Như:
- “Dùng cốc 27 thạch 6 đấu, trong đó 16 thạch là túc (粟), 11 thạch 6 đấu là mạch.”
— Hợp hiệu 177·16 - “Xuất cốc 464 thạch, trong đó 29 thạch là túc, 290 thạch là mễ (糜), 145 thạch là mạch; tháng ba để nuôi 240 lính đồn trú, mỗi người 20 (đấu).”
— Hợp hiệu Giáp phụ·8
Vậy giá “cốc” ở đây chỉ giá các loại như túc, mạch, mễ… Giá túc so với mạch tương đương, như Đôn 361: “Đình trưởng Vương Thọ Khanh, nộp túc ba thạch ba đấu, trị 264 tuyền, hoàn trả cho Phụng Trường.” Mảnh này cũng thuộc thời Tân; mỗi thạch túc 80 tiền, vậy giá túc và mạch khoảng 1:1. Ông Trần Trực sau khi khảo đối nhiều giá ngũ cốc chép trong Hán giản, chỉ ra: “Thời trung – vãn kỳ Tây Hán, giá túc ở vùng Hà Tây, mỗi thạch đều quanh khoảng trăm tiền.”[21] Lại Hợp hiệu 26·9A: “Mễ ba thạch, trị 360”, tức 120 tiền/thạch. Căn cứ ví dụ 1 “đại mạch hai thạch” trị “sáu nghìn”, “cốc một thạch, mỗi thạch ba nghìn”, có thể thấy tỷ giá giữa đại mạch và cốc cũng chừng 1:1. Kết hợp các giản trên, giá cốc ở biên thùy Hà Tây thông thường khoảng hơn trăm tiền mỗi thạch. Vậy cùng thế, giá cốc vào cuối năm Kiến Vũ 2 so với trung – hậu Tây Hán cũng vọt tăng trên 30 lần.
2) So với giá bò
Hợp hiệu 24·1B: “Dùng hai con bò, trị 5.000” — tức một con 2.500 tiền; Hợp hiệu 37·35: “Bò cày hai con, 6.000”, tức 3.000 tiền một con; EPT53·73: “Một con bò, trị 3.500 tiền.” Cửu chương toán thuật quyển bảy ghi “giá bò 3.750”[22], tương đương giá bò vùng Tây Bắc. Suy ra một con bò thường giá khoảng 3.000 tiền. Còn cuối năm Kiến Vũ 2, giá bò cao gấp hơn 60 lần bình thường—rõ ràng dị thường.
3) So với giá cá
- “Xuất ba mươi con cá, trị một trăm □.”
— Hợp hiệu 274·26A - “Một thạch cộng bốn đấu, cộng thêm phụ lại gánh ba mươi con cá, trị ba đấu cốc.”
— Cư Tân EPT65·33
Ví dụ 15 thiếu chữ, nhưng theo văn nghĩa tổng giá cá khoảng 100–199 tiền, tức mỗi con 3,3–6,6 tiền. Ví dụ 16 tính ra mỗi con trị 1 thăng cốc; theo giá thường của cốc đổi ra, một con cá trị 1 tiền. Trong khi cuối năm Kiến Vũ 2 ở chợ Lộc Đắc, một con cá bán 16 tiền. So sánh, độ tăng cao nhất đạt 16 lần, thấp nhất cũng gần 3 lần.
4) So với giá thịt, giá rượu
Trong Hán giản Đôn Hoàng, Cư Diên ghi giá thịt: thấp nhất 3 tiền/cân, cao nhất khoảng 12 tiền/cân. Như Đôn 1701: “Tuý sở Quảng Vũ □□ mua 23 cân thịt, trị 207 tiền”; Hợp hiệu 173·8A, 198·11A: “Mười cân thịt, trị ba mươi.” Ngoài ra, có một ghi chép giá thịt thời Tân: Đôn 309: “Mười cân thịt, trị hai thạch bốn đấu tám thăng.” Nếu theo giá mỗi thạch lương thực 100 tiền để quy đổi, một cân thịt khoảng 25 tiền. Cuối năm Kiến Vũ 2, một cân thịt trị 300 tiền; so với mức cao nhất trung – hậu kỳ Tây Hán là gấp 25 lần; so với thời Tân là gấp 12 lần.
Các giản ghi giá rượu:
- “Một thạch tám đấu rượu, trị 270.”
— Đôn 776 - “Xuất 160 tiền, mua một thạch sáu đấu rượu.”
— Huyền Tuyền[23] Ⅱ0113②:24 - “Xuất 130, mua một thạch ba đấu rượu.”
— Cư Tân EPT51·223 - “Hai thạch rượu, trị 280.”
— Thích Túy[24] EJT21·6
Ví dụ 17: rượu 150 tiền/thạch; ví dụ 18, 19: rượu đều 100 tiền/thạch; ví dụ 20 thuộc “Chi phí đãi sứ giả biên cương đi qua” được cho là vật năm Địa Hoàng 3 (22), giá rượu 140 tiền/thạch. Như đã nêu ở ví dụ 4 (trước năm Kiến Vũ 3), rượu một thạch giá 6.900 tiền; tính ra thời điểm ấy giá rượu cao gấp 46–69 lần trung – hậu Tây Hán, và hơn 50 lần cuối thời Vương Mãng.
Để đối sánh rõ ràng hơn, nay tổng hợp các giá trên thành bảng sau (Bảng 1):
Bảng 1: So sánh vật giá Hà Tây quanh trước – sau Kiến Vũ 3 với trung – hậu kỳ Tây Hán và thời Tân của Vương Mãng
| Thời gian | Hàng hóa | Tây Hán trung – hậu kỳ (tiền) | Thời Tân (tiền) | Kiến Vũ 2 trở quanh (tiền) | Tỷ lệ Kiến Vũ/2 thời trước (lần) |
|---|---|---|---|---|---|
| Đại mạch (thạch) | 110 | — | 3.000 | 27,3 | |
| Mạch (thạch) | — | 79,3–130 | (2.400–3.900) | (30) | |
| Cốc (thạch) | 100 | — | 3.000–4.000 | 30–40 | |
| Bò (con) | 2.500–3.500 | — | 180.000 | 51–72 | |
| Thịt (cân) | 3–12 | 25 | 300 | 25–100\12 | |
| Rượu (thạch) | 100–150 | 140 | 6.900 | 46–69\49 | |
| Cá (con) | 1–6,6 | — | 16 | 2,4–16 |
Chú: Giá đặt trong ngoặc là giá gần đúng suy tính theo tỷ lệ tăng của giá lương thực năm Kiến Vũ 2.
Sau khi Vương Mãng nắm quyền, bốn lần cải cách tiền tệ, vốn “mưu toan dùng cải cách tiền tệ để vớt vát nền thống trị đang chao đảo”, “kết quả lại phản tác dụng”.[25] Nhiều lần đổi tiền, đến nỗi “mỗi lần đổi tiền, dân dụng tán gia bại sản”[26]. Theo quy luật lưu thông tiền tệ, trong một thời kỳ nhất định, nếu vận tốc lưu thông tiền không đổi, muốn giữ cơ bản ổn định giá trị tiền tệ thì lượng phát hành tiền phải tỷ lệ thuận với tổng giá cả hàng hóa hiện thực. Thế nhưng vào cuối Tân – đầu Đông Hán, mâu thuẫn dân tộc, giai cấp gay gắt, chiến tranh bùng khắp, sản xuất tàn phá, ruộng đồng bỏ hoang, dân không yên tâm canh tác, lương thực khan hiếm; tư đúc tràn lan, tiền tệ mất giá nghiêm trọng. Trong khi ở vòng lưu thông, lượng tiền tăng, thì các vật phẩm như lương thực lại cực kỳ thiếu thốn, cung – cầu không thể đạt cân bằng nội tại. Giá lương thực như hỏa tiễn vọt thẳng: “Năm Địa Hoàng 2 … vùng Bắc biên và đất Thanh – Từ người ăn thịt lẫn nhau, Lạc Dương về phía đông gạo một thạch (đo bằng thùy) 2.000 tiền”[27]; “Cuối đời Vương Mãng, thiên hạ hạn châu chấu, một cân hoàng kim đổi một hộc túc”[28]; lại như Hậu Hán thư – Phạm Thăng truyện chép: “Khi ấy Mãng liên miên phát binh dịch, tăng thuế sưu… rau dại không đủ ăn, ruộng bỏ không cày, giá cốc tung vọt, một hộc đến mấy nghìn.”[29] Có thể thấy, bất luận trung nguyên hay biên địa Tây Bắc, các loại vật giá so với trung – hậu Tây Hán đều tăng phổ biến, thậm chí một số mặt hàng tăng vọt dị thường. Không còn nghi ngờ gì, lạm phát thời đoạn này đã hết sức nghiêm trọng.
II. “Chế độ bổng lộc mới cho quan lại (吏俸新制)” — nước cờ then chốt của nhóm Đậu Dung để ứng phó lạm phát
(1) Nhóm Đậu Dung và việc ban hành “chế độ bổng lộc mới cho quan lại”
“Nhóm Đậu Dung” ở đây chỉ thế lực địa phương trấn giữ Hà Tây do Đậu Dung, Đô úy thuộc quốc Trương Dịch, đứng đầu; lực lượng này do các Trưởng lại của năm quận Kim Thành, Vũ Uy, Trương Dịch, Tửu Tuyền, Đôn Hoàng cùng hào kiệt địa phương kết hợp thành. Đậu Dung từng làm quan triều Tân của Vương Mãng; sau khi Vương Mãng bại vong, chính quyền Canh Thỉ vào Trường An, ông bèn hàng Canh Thỉ, được tiến cử làm Thái thú Cự Lộc. Hậu Hán thư – Liệt truyện Đậu Dung chép: “Dung thấy Canh Thỉ mới lập, Đông phương còn loạn, không muốn ra quan ải; mà kỵ tổ từng làm Thái thú Trương Dịch, đường huynh từng làm Hộ Khương Hiệu úy, em con chú cũng làm Thái thú Vũ Uy, nhiều đời ở Hà Tây, am tường thổ tục, bèn một mình nói với anh em rằng: ‘An nguy thiên hạ chưa thể biết, Hà Tây giàu có, dựa sông làm vững, thuộc quốc Trương Dịch có tinh binh vạn kỵ; một khi hữu sự, chẹn tuyệt bến sông, đủ để tự thủ, ấy là nơi để lại giống nòi vậy.’” Thế là Đậu Dung xin với chính quyền Canh Thỉ được ra Hà Tây, từ chối chức Thái thú Cự Lộc. Việc này được Canh Thỉ chuẩn y, ông liền được trao chức Đô úy thuộc quốc Trương Dịch: “Dung rất mừng, lập tức đem gia quyến về phía tây. Đến nơi, ông vỗ về kết giao hùng kiệt, an ủi thu phục người Khương, rất được lòng họ; Hà Tây liền nhất tề theo về.”[30]
Thời kỳ nhóm Đậu Dung trấn giữ Hà Tây đúng lúc Hai Hán thay ngôi; giữa cục diện Trung Nguyên rối ren chao đảo, Hà Tây tương đối yên ổn bèn trở thành chốn lý tưởng cho nho sĩ Trung Nguyên và lưu dân lánh nạn. Tuy nhiên bấy giờ tình thế lạm phát nghiêm trọng đang làm khổ mọi thế lực. Khác với các thế lực cát cứ khác như Quý Nghiêu, Công Tôn Thuật đều xưng vương lập quốc, nhóm Đậu Dung trước sau tôn Đông Hán làm chính thống. Địa thế “một góc trời” cùng lựa chọn chính trị đúng đắn giúp nhóm Đậu Dung tránh được binh hỏa quấy nhiễu, có thể tập trung tinh lực vào việc trị lạm phát.
“Chế độ bổng lộc mới cho quan lại” là lệnh bổng lộc áp dụng cho thuộc lại được nhóm Đậu Dung ban hành vào tháng tư năm Kiến Vũ thứ ba; lệnh này khác với cựu chế đời Tây Hán và triều Tân của Vương Mãng, quy định rõ ràng thực thi chế độ mới lấy thóc lúa (谷, cốc) làm bổng. Nội dung cụ thể thấy trong Sổ phát thóc bổng cho thuộc lại phủ Đô úy Cư Diên, phát hiện tại phòng số 22 di chỉ Phá Thành Tử thuộc Hầu quan Giáp Khư; để tiện thảo luận, xin liệt chép văn giản như sau[31]:
居延都尉 奉谷月六十石 《居新》EPF22·72
居延都尉丞 奉谷月卅石 《居新》EPF22·73
居延令 奉谷月卅石 《居新》EPF22·74
居延丞 奉谷月十五石 《居新》EPF22·75
居延左右尉 奉谷月十五石 《居新》EPF22·76
●右以祖脱谷给岁竟壹移计 《居新》EPF22·77
居延城司马、千人、候、仓长、丞、塞尉 《居新》EPF22·78
●右职闲,都尉以便宜予从史令田 《居新》EPF22·79
建武三年四月丁巳朔辛巳,领河西五郡大将军张掖属国都尉融移张掖居延都尉,今为都尉以下奉各如差,司马、千人、候、仓长、丞、塞尉职闲,都尉以便宜财予从史、田吏,如律令 《居新》EPF22·70
六月壬申,守张掖居延都尉旷、丞崇告司马、千人官,谓官县写移,书到,如大将军莫府书律令。 掾阳、守属恭、书佐丰 《居新》EPF22·71A
Căn cứ văn lệnh trên, vào tháng tư năm Kiến Vũ 3, “chế độ bổng lộc mới” được hạ mệnh theo danh nghĩa “Đô úy thuộc quốc Trương Dịch kiêm Đại tướng quân lĩnh năm quận Hà Tây là Đậu Dung”, đối với các chức như Đô úy Cư Diên, Thừa Đô úy, Lệnh Cư Diên, Huyện thừa v.v. đều định mức bổng lộc cụ thể. Còn các thuộc lại bậc thấp như Thiên nhân, Hầu, Tái úy… thì bổng lộc由Đô úy Cư Diên “以便宜财予” (lấy sự tiện nghi mà tài/cải cho). “财” thông với “裁”, nghĩa là định mức, quyết định. Tức là căn cứ lượng thóc bổng đã ấn định cho các chức cao làm tham chiếu, từ đó phân bổ hợp lý và định mức bổng cho các chức thấp.
Đặc điểm nổi bật nhất của “chế độ bổng lộc mới” là bổng lộc thuộc lại đều phát bằng thóc (谷).
Bổng lộc quan lại đời Hán: Tây Hán chủ yếu phát bằng tiền, triều Tân của Vương Mãng thiên về hiện vật, đến Đông Hán thì nửa thóc nửa tiền.[32] Tính đến tháng tư năm Kiến Vũ 3 đã bốn năm kể từ khi Đậu Dung vào Hà Tây[33]; trong khoảng ấy, bổng lộc quan lại Hà Tây theo hình thức nào? Sử tịch không có tư liệu trực tiếp, nhưng căn cứ các Hán giản liên quan có thể suy đoán phần nào. Như:
- “Xuất nộp tiền sáu trăm, cấp bổng tháng sáu cho Tuý trưởng Vạn Tuế là Vương Phụng.” 《居新》EPT4·59
- “Lộc tháng hai của Hạ Hầu Đàm: vải bố ba trượng sáu thước, lụa hai trượng sáu thước; ngày Nhâm Ngọ tháng ba tự đến lĩnh.” 《居新》EPT27·10
Trong ví dụ 21, “Vương Phụng”, các văn giản liên quan đều ngay ngắn; ông Lý Chấn Hồng cho rằng người này giữ chức Tuý trưởng vào niên hiệu Canh Thỉ.[34] Lại căn cứ văn giản, bổng lộc của ông được phát bằng tiền, vậy không thể thuộc thời điểm sau khi “Sổ bổng thóc” năm Kiến Vũ 3 ban hành; đồng thời trong ngôn ngữ mô tả và bút pháp cũng không thấy các đặc trưng thời Tân của Vương Mãng; hơn nữa trong Cư Diên tân giản, các văn giản sau năm Kiến Vũ 8 (32) rất ít. Bởi vậy mảnh giản này nên thuộc trước Kiến Vũ 3. Ở ví dụ 22, về Hạ Hầu Đàm, trong Hán giản Cư Diên có khá nhiều mảnh; có học giả cho rằng Hạ Hầu Đàm giữ chức “Hầu quan Giáp Khư duyện” từ cuối thời Tân đến đầu Kiến Vũ là có thể xác định.[35] Lại theo nghiên cứu của Lý Chấn Hồng, “thời gian chính ông giữ chức nên là đầu Kiến Vũ đến sau năm Kiến Vũ 7 (31)”[36]. Tháng tư Kiến Vũ 3 nhóm Đậu Dung ban hành chế độ mới lấy thóc làm bổng; ở ví dụ này Hạ Hầu Đàm lĩnh bổng bằng bố và lụa; vậy có thể loại trừ khả năng sau Kiến Vũ 3. Có thể ước đoán: trước khi nhóm Đậu thực thi chế độ mới, bổng lộc quan lại Hà Tây đồng thời dùng tiền, bố, lụa… đan xen.
Suy theo lẽ thường, hình thức phát bổng là thứ yếu; điều cốt yếu là mức bổng và giá trị nó biểu thị. Vì sao nhóm Đậu Dung không tiếp tục dùng hình thức bổng lộc tiền xen với bố, lụa ở Hà Tây, mà lại vào tháng tư Kiến Vũ 3 đặc biệt ban hành chế độ bổng bằng thóc, đồng thời quy định rõ lượng thóc bổng của các ngạch thuộc lại trong phủ Đô úy? Người viết cho rằng điều này gắn chặt với tình thế lạm phát nghiêm trọng lúc bấy giờ.
(2) “Chế độ bổng lộc mới” và việc kìm hãm lạm phát
Lấy thóc làm bổng là biến đổi lớn nhất của “chế độ bổng lộc mới”, cũng là một bước cải cách của nhóm Đậu Dung.
Trong xã hội nông nghiệp cổ đại, “vương giả lấy dân làm trời, mà dân lấy ăn làm trời”[37], an ninh lương thực được coi trọng bậc nhất. Lễ ký – Vương chế nói: “Nước không có tích trữ chín năm gọi là bất túc; không có sáu năm gọi là cấp bách; không có ba năm gọi là nước không còn là nước nữa.”[38] Giá lương thực đương nhiên trở thành nền tảng của mọi giá cả. Trong Hán giản thường thấy các trường hợp lấy lương thực làm vật ngang giá, như các ví dụ 1, 4, 5, 16 v.v. Giá lương thực tăng tất kéo theo chuỗi tăng giá của các hàng hóa khác. Làm sao kìm hãm từ gốc thế lạm phát, giữ cho kinh tế vận hành ổn định? Việc ban hành chế độ mới lấy thóc làm bổng dẫn dắt xã hội dùng lương thực làm vật ngang giá — đối với việc kìm cơn sốt giá lúc ấy, quả là trúng ngay chỗ đau.
Đem bổng lộc quan lại trung – hậu Tây Hán so với “Sổ bổng” do nhóm Đậu Dung ban hành, ý nghĩa lớn của “chế độ bổng lộc mới” liền hiển hiện. Tình hình bổng lộc quan lại Tây Hán đã được bậc tiền bối Trần Mộng Gia trong Hán giản trệ thuật và học giả đương đại Lý Thiên Hồng trong Nghiên cứu phân loại sổ tịch Hán giản Cư Diên luận giải sắc sảo[39]. Trên cơ sở đó, người viết đối chiếu “Sổ bổng” với bổng lộc đời Tây Hán.
Muốn so với trung – hậu Tây Hán, trước tiên phải định chuẩn mức bổng tháng các cấp thuộc lại. Trung – hậu Tây Hán từng hai lần tăng bổng cho quan liêu cấp thấp. Một là năm Thần Tước thứ ba (59 TCN) đời Tuyên Đế, Hán thư – Kỷ Tuyên Đế: “Tăng bổng cho quan liêu dưới bậc trăm thạch mười lăm (phần).”[40] Hai là năm Túy Hòa thứ hai (7 TCN) đời Thành Đế, Hán thư – Kỷ Ai Đế: “Tăng bổng cho quan liêu dưới ba trăm thạch.”[41] Theo đó, Tái úy, Thừa, Hầu trưởng, Sĩ lại, Lệnh sử, Hầu sử, Úy sử, Tuý trưởng… đều ở diện tăng bổng. Trong Hán giản, bổng tháng của các thuộc lại bậc “trăm thạch”, “Tả sử” v.v. có hai mức, hiện tượng “đồng chức khác bổng” này, ông Trần Mộng Gia cho là do trước – sau các lần tăng bổng khác nhau mà thành.[42] Song trong Hán giản cũng có ngoại lệ, như Cư Tân EPT51·239 niên hiệu Vĩnh Quang 5 (39 TCN), EPT51·234 niên hiệu Kiến Chiêu 3 (36 TCN), EPT51·409 niên hiệu Kiến Chiêu 5 (34 TCN), các bạ lục bổng lộc đều ghi Tuý trưởng, Hầu sử, Tả sử bổng tháng là 600 tiền, y như trước lệnh tăng bổng năm Thần Tước 3. “Dường như cho thấy chiếu thư tăng bổng năm Thần Tước 3 không được thi hành nơi biên tái; biến động bổng của Hầu trưởng v.v. có lẽ bắt đầu do chiếu thư năm Túy Hòa 2.”[43] Hoặc cũng có ý kiến “hai lần tăng bổng Thần Tước và Túy Hòa có thể là tăng tạm thời, còn chuẩn mức không thay đổi.”[44] Vì thiếu tư liệu kiểm chứng xác thực, nên các nhà học giả cũng chỉ có thể đưa giả thuyết.
Ở phần trước, ta đã dẫn ví dụ 21 và định rằng mảnh giản này về niên đại thuộc đầu thời nhóm Đậu trấn Hà Tây; bổng tháng của Tuý trưởng là 600 tiền — trùng với chuẩn trước tăng bổng năm Thần Tước 3. Ngoài ra, trong Hán giản Ngạc Tề Nạp có mảnh sau:
- “Tuý trưởng Chỉ Bắc Giáp Khư ở Cư Diên, người làng Lũy Sơn Cư Diên là Triệu Tuyên, nhận bổng tuyền sáu trăm, trả về.” 《额》[45]2000ES7SF1·13
Căn cứ đặc trưng mảnh giản này, thuộc thời Vương Mãng; bổng tiền của Tuý trưởng là 600. Lấy tiền làm bổng, hẳn là ghi chép trước khi chế độ bổng được cải đổi vào năm Thiên Phụng 3 (16). Điều này dường như cho thấy thời Vương Mãng cũng duy trì chuẩn trước tăng bổng Thần Tước 3. Sau khi triều Tân bại vong, Đậu Dung đa phần khôi phục cựu chế Tây Hán (như địa danh, quan danh, tên gọi tiền tệ v.v. ở Hà Tây), do đó rất có khả năng “Sổ bổng” do nhóm Đậu ban hành tham chiếu chuẩn cũ bổng lộc Tây Hán để định lượng. Bởi vậy trong bài này ta dùng chuẩn bổng tháng trước khi tăng bổng.
Tổng hợp trên, đem bổng tháng các thuộc lại chủ yếu ghi trong “chế độ bổng lộc mới” đối chiếu với Tây Hán trung – hậu kỳ như bảng 2 (số trong ngoặc là kết quả suy tính theo tỷ lệ):
Bảng 2: Đối chiếu bổng tháng thuộc lại chủ yếu phủ Đô úy Cư Diên (Kiến Vũ 3) với Tây Hán
| Chức danh | Bậc trị (秩別) | Bổng tháng bằng tiền (Tây Hán) | Bổng tháng bằng thóc (Kiến Vũ 3) |
|---|---|---|---|
| Đô úy Cư Diên | Bì nhị thiên thạch | 12.000 | 60 thạch |
| Thừa Đô úy | Lục bách thạch | 6.000 | 30 thạch |
| Lệnh Cư Diên | Lục bách thạch | 6.000 | 30 thạch |
| Hầu | (lục bách thạch) | 6.000 | (30 thạch) |
| Thiên nhân | Bì lục bách thạch | (3.000) | (15 thạch) |
| Thành Tư mã | (Bì lục bách thạch) | (3.000) | (15 thạch) |
| Huyện thừa Cư Diên | Tam bách thạch | (3.000) | 15 thạch |
| Tả hữu Úy Cư Diên | Tam bách thạch | (3.000) | 15 thạch |
| Thương trưởng (khố trưởng) | (—) | (3.000) | (15 thạch) |
| Tái úy | Nhị bách thạch | 2.000 | (10 thạch) |
| Thừa (cấp dưới) | Nhị bách thạch | 2.000 | (10 thạch) |
| Hầu trưởng | Bách thạch | 1.200 | (6 thạch) |
| Sĩ lại | (—) | 1.200 | (6 thạch) |
| Lệnh sử | Đấu thực | 900 | (4 thạch 5 đấu) |
| Úy sử | Tả sử | 600 | (3 thạch) |
| Hầu sử | (—) | 600 | (3 thạch) |
| Tuý trưởng | (—) | 600 | (3 thạch) |
Trong bảng 2, “Hầu” trong Hán giản cũng thấy bậc bì lục bách thạch, bổng tháng 3.000 tiền; ở đây tạm liệt vào hạng lục bách thạch cho đồng bậc với Lệnh Cư Diên. “Thiên nhân”, “Thành Tư mã” thuộc bì lục bách thạch, tham chiếu trường hợp “Hầu” khi ở bậc “bì lục bách thạch” có bổng tháng 3.000 tiền, nên định bổng tháng bậc “bì lục bách thạch” là 3.000 tiền. Trong “Chức luật” Hán giản Trương Gia Sơn quy định bổng lộc lúc bấy giờ: bậc Huyện lệnh/Trưởng lại có các cách phối bậc như 800 thạch; Thừa, Úy 400 thạch; Trưởng lại 600 thạch; Thừa, Úy 300 thạch; Trưởng lại 500 thạch; Thừa, Úy 300 thạch, v.v.[46] Do đó Huyện thừa Cư Diên, Tả hữu Úy Cư Diên lấy 300 thạch, bổng tháng khoảng 3.000 tiền. Các mục còn lại như Tái úy, Hầu trưởng, Tuý trưởng… bổng tháng dựa theo cựu chế Tây Hán ghi trong văn giản. Theo “chế độ bổng lộc mới”, tỷ lệ bổng thóc tháng giữa Đô úy Cư Diên (bì nhị thiên thạch), Thừa Đô úy & Lệnh Cư Diên (lục bách thạch), Huyện thừa Cư Diên & Tả hữu Úy Cư Diên (tam bách thạch) là 4 : 2 : 1. Tỷ lệ bổng bằng tiền theo cựu chế Tây Hán cũng đồng dạng. Theo tỷ lệ đó, suy ra mức bổng thóc tháng cho bậc nhị bách thạch trở xuống, như Tái úy bậc nhị bách thạch bổng tháng 2.000 tiền; so với bổng tiền của bậc bì nhị thiên thạch và lục bách thạch, có thể tính ra bổng thóc khoảng mười thạch; các bậc khác suy tương tự.
Như vậy ta có thể đối soát hai bên. Chiếu theo giá thóc 100 tiền/thạch thời Tây Hán, bổng tháng của Đô úy Cư Diên có thể mua 120 thạch lương; bổng tháng của Hầu trưởng mua 12 thạch; bổng tháng của Úy sử mua 6 thạch. Sau khi nhóm Đậu Dung ban hành “chế độ bổng lộc mới”, đổi phát bổng từ tiền sang thóc, thì bổng tháng của Đô úy Cư Diên là 60 thạch, Hầu trưởng 6 thạch, Úy sử 3 thạch. Rõ ràng bổng lộc các cấp đều giảm một nửa. Lúc này, 60 thạch bổng tháng của Đô úy Cư Diên (dưới chế độ mới) có giá trị sử dụng tương đương với 12.000 tiền bổng tháng đời Tây Hán. Quy đổi ra, mỗi thạch thóc trị giá 200 tiền. Nói cách khác, việc thực thi “chế độ bổng lộc mới” lấy thóc làm bổng đã làm giá trị bản thân của lương thực tăng lên — so với đời Tây Hán, tăng gấp đôi. Vậy nên, trong bối cảnh lương thực khan hiếm, vật tư thiếu thốn, khi lấy lương thực làm vật ngang giá, giá của các vật phẩm khác tự nhiên giảm xuống. Như ví dụ 4 đã nêu: “rượu hai thạch ba đấu, trị bốn thạch sáu đấu”, nếu theo giá ở vùng Cư Diên là 3.000 tiền/thạch để quy, thì một thạch rượu là 6.900 tiền. Sau khi áp dụng chuẩn “chế độ bổng lộc mới”, giá trị lương thực tăng gấp đôi, thì hai thạch ba đấu rượu chỉ đáng hai thạch ba đấu lương; quy ra tiền, một thạch rượu chỉ 3.000 tiền. So với trước, giá rượu giảm quá một nửa.
“Chế độ bổng lộc mới” là “xét tình trạng chế độ tiền tệ sụp đổ, vật giá bay vọt, bèn dùng toàn thóc để trả bổng — điều này có ý nghĩa tiến bộ”[47]. Hiển nhiên, chế độ bổng lộc lấy thóc thay tiền không chỉ hướng dẫn xã hội dùng lương thực làm vật ngang giá chung, phát huy vai trò trục của giá thóc với tư cách “nền của trăm giá”, thúc đẩy giá lương thực hạ, vừa có lợi khuyến khích sản xuất nông nghiệp, lại ngăn đà tăng giá, đạt đến mục tiêu kìm hãm lạm phát.
III. Những biện pháp khác của nhóm Đậu Dung trong quản trị lạm phát và ảnh hưởng
Sau khi nhóm Đậu Dung ban hành “chế độ bổng lộc mới cho quan lại” vào năm Kiến Vũ thứ ba, họ lại lần lượt thi hành một loạt biện pháp ứng phó lạm phát khác, đạt hiệu quả rõ rệt và để lại ảnh hưởng sâu rộng.
(一) Các biện pháp khác của nhóm Đậu Dung để trị lạm phát
Thứ nhất, nghiêm cấm tư đúc, thu quyền đúc tiền về tay nhà nước.
Nạn tư đúc trong dân là tệ căn cố hữu của xã hội đời Hán, xưa nay luôn được coi trọng và bị nhà nước trấn áp nghiêm ngặt. Như 《合校》20·12A chép: “Năm Nguyên Khang thứ nhất (65 TCN), tháng 12 ngày Tân Sửu sóc Nhâm Dần, Hầu trưởng Đông Bộ là Trường Sinh dám tâu: Hầu quan chuyển thư đến Thái thú phủ; thư của Đốc úy Hà Nam chép rằng: Sắc lệnh truy bắt những kẻ có tên trong sổ cùng bọn đúc tiền giả, đạo tặc đã trốn chưa bắt được như Ngưu Diên Thọ, Cao Kiến… tổng cộng 24 người; thư tới thì lục soát.” Nhà nước tận lực truy bắt tội phạm đúc tiền giả, giúp duy trì ổn định chế độ tiền tệ. Nhắm vào tình trạng tư đúc lan tràn từ triều Tân của Vương Mãng trở đi, nhóm Đậu Dung vào năm Kiến Vũ thứ sáu (30) ban hành lệnh nghiêm cấm tư đúc:
“Quan lại, dân đen gian xảo mượn tiếng khách khứa mà lén đúc tiền, mỏng nhỏ, không hợp phép tắc; lại còn đào mộ cướp của, đem y vật của người chết bán nơi đô thị; tuy biết mà không ai trị phạt nghiêm, bách tính khổ sở vì đó. Khi thư đến, từ nay chỉ cho quan huyện (tức cơ quan nhà nước) đúc tiền, bắt buộc đúng phép tắc. Cấm quan lại, dân đen không được đúc tiền, không được tàng trữ loại tiền không được lưu hành; ai trái lệnh, xử theo luật.” 《居新》EPF22·38A~39
Tư đúc hoành hành làm ra thứ tiền “mỏng nhỏ, không hợp phép tắc”, khiến giá trị tiền tệ bị tổn hại nặng nề. Khi lượng tiền dư thừa ồ ạt tràn vào thị trường, dẫn đến phát hành tiền vượt quá nhu cầu thực tế: “tiền ngày càng nhiều mà nhẹ, vật ngày càng ít mà đắt”[48]; “tiền gian ngày một nhiều, năm loại cốc cũng không thể nhiều”[49]. Tất yếu trật tự thị trường bị rối loạn, giá hàng hóa bị đẩy lên không ngừng, rốt cuộc sinh ra lạm phát ác tính. Nhóm Đậu Dung “cấm quan lại, dân đen đúc tiền, cấm tàng trữ tiền không lưu hành”, lại “chỉ cho quan phủ đúc tiền”, tức thu quyền đúc tiền về nhà nước; đồng thời chặn đà nông dân bỏ gốc theo ngọn, bỏ cày cấy ngũ cốc để chuyên làm chuyện trái phép là đúc tiền—điều này có ý nghĩa lớn trong khôi phục và duy trì trật tự kinh tế thị trường.
Thứ hai, cấm giết ngựa bò, bảo hộ sản xuất nông nghiệp.
Muốn kìm lạm phát, ắt phải bảo đảm nguồn cung hàng hóa tương đối dồi dào để cân đối với tổng lượng tiền lưu thông trên thị trường. Sau khi ban hành “chế độ bổng lộc mới” lấy cốc (thóc lúa) làm bổng, nhóm Đậu Dung cần gấp xoay chuyển tình trạng lương thực cực kỳ khan hiếm. Đảm bảo cung lương thực, phát triển nông nghiệp là căn bản. Ngựa và bò giữ vai trò tối trọng trong xã hội nông nghiệp: bò là gốc của canh tác, là tư bản của nông phu nên được nhà nước coi trọng; ngựa không chỉ là nền tảng tác chiến chống Hung Nô mà cũng là công cụ quen thuộc trong sản xuất nông nghiệp. Năm Kiến Vũ thứ tư (28), nhóm Đậu Dung ban hành luật lệnh, cáo tri các cấp quan lại, nghiêm cấm giết mổ ngựa bò:
“Năm Kiến Vũ thứ tư, tháng năm, ngày Tân Tỵ sóc Mậu Tý, Tái úy Giáp Khư là Phóng Hành Hầu sự tâu rằng, phủ chuyển lời sắc chỉ của sứ giả rằng: Không được giết mổ bò ngựa. ‘Tứ thời ngôn’ ● kính xét: Thuộc lại các bộ không được giết mổ ngựa bò; ai dám □□ …” 《居新》EPF22·47A
Chữ “四时言” (tứ thời ngôn) thấy khá nhiều trong Hán giản, ở đây nên hiểu là “bất cứ lúc nào”, ý nói hễ xảy ra tình trạng “giết mổ ngựa bò”, thì các thuộc lại trong quận, bộ phải kịp thời báo lên cấp trên. Nhóm Đậu Dung cấm giết ngựa bò, thúc đẩy nông nghiệp phát triển, tăng nguồn cung lương thực—điều này có ý nghĩa phi phàm trong việc bình ổn lạm phát.
Thứ ba, đề xướng tiết kiệm, phản đối xa xỉ.
Xa xỉ và lãng phí như cặp song sinh, thường tiếp tay hoặc kích thích lạm phát kéo dài hoặc trầm trọng thêm. Hành vi xa xỉ lãng phí nuôi lớn lòng chiếm hữu và việc sử dụng vô độ tài nguyên; người tiêu dùng đua nhau khoe khoang, sính hình thức, chuộng mua hàng khan hiếm, càng làm trầm trọng sự thiếu hụt hàng hóa, đẩy một bộ phận giá cả leo thang. Suốt đời Hán, tệ tục hôn giá xa xỉ rất thịnh. Đến buổi Hai Hán giao thời, kinh tế điêu linh, vậy mà phong khí xa hoa vẫn dai dẳng không suy. Hoàn Đàm—từng làm quan triều Tân và Canh Thỉ—khi đầu Đông Hán đã dâng thư “Trần thời chính sở nghi” lên Quang Vũ Đế, chỉ rõ: “Nay phú thương đại giả (nhà buôn lớn) phần nhiều buông thả tiền của… bởi vậy mọi người đua nhau noi theo, không cày mà ăn, thậm chí mượn cớ giao du mà đắm mình trong xa xỉ, làm hư hỏng tai mắt.”[50] Vào lúc vật tư khan hiếm, giá lương thực vọt cao ở buổi Hai Hán, nếu phóng túng xa xỉ trong cưới gả thì, một là khiến trăm họ gánh nặng kinh tế, bất lợi cho sự phát triển bình thường của sản xuất xã hội; hai là tất yếu đẩy giá cả tăng vọt, tạo vòng xoáy ác tính. Nhóm Đậu Dung từng nghiêm cấm “cưới gả xa xỉ”:
“Năm Kiến Vũ thứ tư, tháng năm, ngày Tân Tỵ sóc Mậu Tý, Tái úy Giáp Khư là Phóng Hành Hầu sự tâu. Sắc thư nói: Quan lại ba trăm thạch và trăm họ khi cưới gả, tổng phí không được quá mười lăm nghìn (tiền); từ Quan nội hầu trở xuống đến tông thất và con của Liệt hầu, tiền sính hỏi, cưới gả mỗi hạng làm đúng theo lệ.” 《居新》EPF22·45A
Quy định rằng quan lại từ bậc ba trăm thạch trở xuống và thường dân khi cưới gả không được vượt quá 15.000 tiền, còn từ Quan nội hầu trở xuống đến tông thất, con Liệt hầu—phí sính hỏi, cưới gả đều có chuẩn định—điều này trong một mức độ nhất định đã đảm bảo sử dụng hiệu quả tài nguyên, giảm bớt cầu đối với một số hàng hóa khan hiếm, tránh việc nguồn cung hữu hiệu không đủ mà đẩy giá tăng. Nhất định có tác dụng giảm nhẹ lạm phát.
(二) Ảnh hưởng
Nhóm Đậu Dung lần lượt ban hành và thi hành một loạt biện pháp ứng phó lạm phát, gặt hái hiệu quả rất rõ: thúc đẩy giá cả nhanh chóng hạ, giữ vững ổn định xã hội trong khu vực. Trong đó, “chế độ bổng lộc mới” lấy cốc làm bổng cũng để lại ảnh hưởng lịch sử không thể xem nhẹ đối với hậu thế.
Trong thời loạn lạc ở buổi Hai Hán giao thời, nhóm Đậu Dung nhắm trúng căn do: bảo vệ ngựa bò khỏi bị giết mổ, tích cực phát triển nông nghiệp, tăng cung lương thực; trấn áp tư đúc, cấm lưu hành tiền tệ khác, thu quyền đúc tiền để thống nhất tiền tệ; đề xướng tiết kiệm, đảm bảo cung hàng hóa, làm giảm tốc độ lưu thông tiền. Các biện pháp ấy nhanh chóng phát huy hiệu lực, tình hình lạm phát ở biên tái Tây Bắc được kiềm chế ở một mức độ nhất định, giá cả giảm rõ rệt.
Trong Hán giản Cư Diên có một mảnh ghi chép về vật giá:
“● Phạm Quân ngày 21 tháng trước đi qua Đương Khúc nói rằng, ‘Đậu Chiêu công’ về tới Cao Bình rồi; đường không thông ● Thiên tử đang đem binh ở Thiên Thủy; nghe bọn Khương, Hồ muốn đánh sang phía tây sông; nay Trương Dịch phát binh đóng nơi các núi khe. Mạch chín, mỗi thạch 1.200 (tiền); lụa 12.000; bò có giá, ngựa như cũ. Giữa tháng bảy e rằng gấp gáp; quan lại dân chúng chưa yên.” 《居新》EPF22·325A
Ông Cừu Tích Khuê khi khảo chứng mảnh giản này chỉ rõ, “‘Đậu Chiêu công’ nên là em của Đậu Dung là Đậu Hữu; chỗ này nói đến việc Quang Vũ Đế cùng Đậu Dung hiệp mưu tiến đánh thế lực cát cứ ở Thiên Thủy là Quý Nghiêu.” Dựa vào “giữa tháng bảy” trong giản văn suy ra, bức thư này được viết không lâu sau tháng bảy năm Kiến Vũ thứ sáu.[51] Lời ấy đáng tin. Như vậy có thể biết, từ sau khi nhóm Đậu Dung ban hành “chế độ bổng lộc mới” vào năm Kiến Vũ thứ ba, đến năm Kiến Vũ thứ sáu, vật giá đã biến chuyển rõ rệt, so với cuối năm Kiến Vũ thứ hai đã giảm mạnh.
Theo giản văn, ngay trước thềm bùng nổ chiến sự, giá mạch xảy ra một đợt tăng tạm thời, 1.200 tiền/thạch. So với cuối năm Kiến Vũ thứ hai, giá mạch đã hạ hơn một nửa. Tình trạng tương tự ở Hà Đông vào năm Kiến Vũ thứ mười hai (36) dường như còn nặng hơn ở Hà Tây năm Kiến Vũ thứ sáu: 《后汉书·天文志上》 chép: “Hung Nô nhập Hà Đông, Trung Quốc chưa yên, gạo thóc khan hiếm đắt đỏ, dân có người phiêu tán.”[52] Mức giảm giá trong giai đoạn này còn có thể thấy qua đối chiếu giá ngựa, giá bò. Câu “bò có giá, ngựa như cũ” cho thấy giá ngựa bò không chênh mấy so với trước, không có dấu hiệu tăng vọt; chữ “cũ” tất nhiên chỉ mức giá bình thường kéo dài trong trung-hậu kỳ Tây Hán. Giá bò đã phân tích ở trên (xem Bảng 1), mỗi con khoảng 2.500–3.500 tiền. Về giá ngựa, các học giả căn cứ ghi chép trong Hán giản Cư Diên, Đôn Hoàng đã nghiên cứu, cho rằng giá ngựa thường vùng Hà Tây trung-hậu kỳ Tây Hán vào khoảng 4.000–15.000 tiền.[53] Theo Hán giản và văn hiến, giá bò nhìn chung thấp hơn giá ngựa. Năm Kiến Vũ thứ hai, giá bò dị thường cao, thì giá ngựa tự nhiên cũng bị đẩy cao mạnh. Còn theo ghi chép “bò có giá, ngựa như cũ” tại đây, tác giả cho rằng—loại trừ ảnh hưởng của yếu tố “chiến sự sắp nổ”—mùa hè năm Kiến Vũ thứ sáu, vật giá biên địa Tây Bắc có lẽ đã dần trở lại bình thường.
Buổi Hai Hán giao thời, chiến hỏa ở Trung Nguyên liên miên. Nhưng ở Hà Tây, dưới sự chăm lo điều hành của nhóm Đậu Dung lại “yên vui phồn thực”, “dân lưu tị nạn của An Định, Bắc Địa, Thượng Quận chạy tránh đói dữ, trở về không dứt”.[54] 《后汉书·窦融列传》 chép: năm Kiến Vũ thứ năm (29), Quang Vũ Đế ban sắc thư khen Hà Tây “binh mã tinh mạnh, kho tàng có tích trữ, dân chúng giàu có”. Đến năm Kiến Vũ thứ mười hai, sau khi Lũng, Thục bình định, “Đậu Dung cùng năm Thái thú dâng tấu ở kinh sư; thuộc lại, khách khứa đi theo; xe cộ hơn nghìn cỗ, ngựa, bò, cừu đầy đồng”. Rõ ràng, cảnh phồn vinh ở các quận Tây Bắc xuất hiện có quan hệ lớn với những đối sách hữu hiệu mà nhóm Đậu Dung thi hành; trong thời gian ngắn, mây mù lạm phát ở biên tái Tây Bắc dần tan biến.
Nhóm Đậu Dung ban hành “chế độ bổng lộc mới” lấy cốc làm bổng không chỉ đóng vai trò tối hệ trọng trong trị lạm phát biên tái Tây Bắc, mà còn có ảnh hưởng trực tiếp đối với triều Đông Hán.
Năm Kiến Vũ hai mươi sáu (50), tháng Giêng, Quang Vũ Đế ban chiếu tăng bổng bách quan, hình thức phát bổng “nửa cốc nửa tiền” trở thành định chế Đông Hán. Nhưng trước đó, bổng lộc quan lại theo hình thức nào, sử không chép rõ. Song ở các quận Tây Bắc, vẫn là lấy cốc làm bổng. Như:
- “Nhận bổng tháng Giêng 穬麦 một hộc; ngày Quý Tỵ, tháng nhuận năm Kiến Vũ 22 (46), Tuý trưởng Bình Vọng là Tống Lực Bố nhận từ Úy sử Nhân.” 《敦》1987
- “Nhận 穬麦 ăn tháng Giêng ba thạch; ngày Giáp Ngọ tháng Giêng năm Kiến Vũ 26, Tuý trưởng An Hán là Tôn Trung thay Vương Dục nhận âm.” 《敦》2175A
- “Nhận bổng tháng Giêng 穬麦 ba thạch nhập ba thạch; tháng Giêng năm Kiến Vũ 26 ngày □□, Tuý trưởng An Hán thay Vương Dục nhận âm.” 《敦》2175B
Trong ba ví dụ này, bổng lộc đồn thú Tây Bắc đều trả bằng 穬麦. Ví dụ 25, 26 đúng vào năm tháng Quang Vũ Đế ban hành chế độ “nửa cốc nửa tiền”. Thông thường, từ khi chiếu thư ban xuống đến khi cơ quan địa phương triển khai, ắt muộn hơn thời điểm sắc ban của hoàng đế; bởi vậy hai ví dụ này cũng phản ánh tình trạng phát bổng trước năm Kiến Vũ 26.
Có học giả cho rằng, đây là kết quả của việc “chế độ bổng bằng cốc” do nhóm Đậu Dung ban ra năm Kiến Vũ 3 đã được thi hành ở Hà Tây.[55] Nhưng theo 《后汉书·窦融列传》, sau khi Quang Vũ Đế bình định các thế lực cát cứ ở Lũng, Thục, liền triệu Đậu Dung cùng năm Thái thú Hà Tây và khách khứa đông tiến đến kinh sư nhận phong thưởng. Đậu Dung “đến cửa thành Lạc Dương, được ban ấn thụ Lương Châu Mục, Đô úy thuộc quốc Trương Dịch, An Phong hầu”; “mấy tháng sau, bái làm Ký Châu Mục, hơn mười ngày nữa lại thăng Đại tư không.”[56] 《后汉书·光武帝纪》 chép việc Đậu Dung từ Ký Châu Mục chuyển làm Đại tư không diễn ra tháng tư năm Kiến Vũ 13 (37). Theo đó, vùng Hà Tây lúc ấy đã hoàn toàn quy thuộc triều Đông Hán. Dẫu không thể căn cứ vào đây để khẳng định rằng trước năm Kiến Vũ 26, toàn quốc Đông Hán thi hành chế độ bổng bằng cốc, nhưng ít nhất có thể biết rằng ở các quận Tây Bắc, từ khi nhóm Đậu Dung thi hành “chế độ bổng lộc mới” vào năm Kiến Vũ 3 tới đó, cách phát bổng bằng cốc vẫn được duy trì, không bị bỏ. Điều này cũng chứng tỏ, cách phát bổng bằng cốc phù hợp với trạng thái phát triển kinh tế – xã hội lúc bấy giờ.
Việc các quận Tây Bắc trả bổng bằng cốc có lẽ không phải là trường hợp đơn lẻ. Đông Hán sơ lập, trên nối tàn hại từ triều Tân, ngoài việc toàn lực dẹp các tập đoàn cát cứ, dựng lại chính quyền thống nhất, còn phải nhanh chóng giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội nghiêm trọng. Mà làm sao trị lạm phát vốn xuất hiện từ cuối triều Tân tất nhiên cũng là một trọng điểm. Quang Vũ Đế đề xướng cần kiệm, nhiều lần thả nô tỳ, tù nhân, khuyến nông. Năm Kiến Vũ thứ mười sáu, bãi bỏ hình thức tiền tệ hỗn hợp “bố, lụa, vàng, cốc” và phục dụng tiền Ngũ thù. Thống nhất tiền tệ, tiện việc thương mại và lưu thông. Năm Kiến Vũ 26, Quang Vũ Đế ban chế độ bổng lộc; chú của Lý Hiền dẫn 《续汉志》 nói: “Bổng tháng của Đại tướng quân, Tam công là 350 hộc; bậc trung nhị thiên thạch là 180 hộc; nhị thiên thạch 120 hộc; bì nhị thiên thạch 100 hộc; thiên thạch 90 hộc; bì thiên thạch 80 hộc; lục bách thạch 70 hộc; bì lục bách thạch 55 hộc; tứ bách thạch 50 hộc; bì tứ bách thạch 45 hộc; tam bách thạch 40 hộc; bì tam bách thạch 37 hộc; nhị bách thạch 30 hộc; bì nhị bách thạch 27 hộc; bách thạch 16 hộc; đấu thực 11 hộc; Tả sử 8 hộc. Phàm những người lĩnh bổng, tiền – cốc mỗi thứ một nửa.”[57] Đoạn tư liệu này bao hàm hai ý: (1) Bổng lộc quan lại đều dùng cốc làm đơn vị biểu thị số lượng rõ ràng — điều này trùng với “chế độ bổng lộc mới” của nhóm Đậu Dung; (2) Khi lĩnh bổng, các cấp quan lại theo số hộc cốc quy định mà quy đổi, rồi phát dưới hình thức “nửa tiền nửa cốc”. Do thời Đông Hán “hệ giá thi hành không phải là cốc bản vị”[58], trong môi trường toàn quốc thống nhất dùng Ngũ thù, chế độ “nửa tiền nửa cốc” linh hoạt hơn: vừa khuyến khích sản xuất lương thực, lại có thể dùng tiền để điều tiết những chao đảo do biến động giá lương thực gây dao động kinh tế và xáo trộn xã hội — có lợi trong việc ngăn lạm phát phát sinh hay xấu đi. Sự ra đời của chế độ bổng “nửa tiền nửa cốc” hẳn là động thái đúng thời của chính quyền Đông Hán, sau khi khôi phục sản xuất và trị lạm phát những năm đầu dựng nước, lại hấp thu kinh nghiệm lịch sử mà thi hành.
Cách phát bổng “nửa tiền nửa cốc” sau đó kéo dài đến cuối Đông Hán. Nhưng theo Hán giản Tây Bắc, ở giai đoạn đầu thi hành, dường như chưa lập tức được quán triệt trên toàn quốc:
- “Nhận bổng tháng bảy 穬麦 tám hộc; ngày Đinh Dậu tháng bảy năm Kiến Vũ 29 (53), Tuý trưởng Cao Vọng thay Trương Bồ nhận ân xá của Hầu trưởng Vạn Tuế.” 《敦》2182
- “Nhận bổng tháng bảy mạch bốn hộc; Vĩnh Bình năm thứ tư tháng bảy ngày Ất Hợi □.” 《敦》2176
Ví dụ 27: năm Kiến Vũ 29 (53), bổng tháng của Tuý trưởng là 穬麦 tám hộc—vừa khớp với mức bổng của Tả sử trong chú của Lý Hiền dẫn 《续汉志》. Ví dụ 28: “Vĩnh Bình năm thứ tư (61)”, vào đầu triều Minh Đế. Cả hai vẫn là lấy cốc làm bổng, thời điểm đều sau chế độ “nửa tiền nửa cốc” năm Kiến Vũ 26. Có thể hiểu rằng, chế độ “nửa tiền nửa cốc” không áp dụng nhất loạt; tại một số vùng xa, vẫn kế thừa cách trả bổng bằng cốc. Điều chắc chắn là, cách trả bổng bằng cốc được chính quyền Đông Hán thừa nhận. Ở một khía cạnh khác, điều này cũng cho thấy, trả bổng bằng cốc trong đầu đời Đông Hán đã đảm đương vai trò cực kỳ quan trọng đối với khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội.
Kết luận
Tổng lại, qua những phân tích trên có thể biết: ở buổi Hai Hán giao thời đã xảy ra lạm phát nghiêm trọng. Các mức giá hàng hóa ghi trong Hán giản so với trung-hậu kỳ Tây Hán đều vọt tăng dị thường; tình trạng thiếu hàng, tư đúc lan tràn, tiền tệ mất giá chính là lời chú giải rõ nhất cho hiện tượng lạm phát. Trong lúc thiên hạ chao đảo, nhóm Đậu Dung trấn thủ Hà Tây tất nhiên cũng không tránh được nỗi khổ vì lạm phát. Họ đã kịp thời thi hành một loạt biện pháp hữu hiệu lấy “chế độ bổng lộc mới” làm hạt nhân, xác lập chế độ bổng lộc lấy cốc làm bổng, thúc đẩy giá cả hạ nhiệt, kìm đà xấu đi của lạm phát; qua đó hết lòng hỗ trợ Quang Vũ Đế bình định Lũng, Thục, thống nhất thiên hạ, đóng vai trò mấu chốt. Nhờ thế, Hà Tây trở thành nơi “dân chúng giàu có, kho tàng có tích trữ”, trăm họ hưởng phúc, là bến bờ lánh nạn của nho sĩ và lưu dân Trung Nguyên. Ở buổi Hai Hán giao thời đầy rối ren và bại hoại, Hà Tây nhờ sự trị lý công phu của nhóm Đậu Dung mà hiển lộ diện mạo phồn vinh đặc thù, được hào kiệt đương thời và anh hùng hậu thế khen ngợi. Quan trọng hơn nữa, “chế độ bổng lộc mới” lấy cốc làm bổng mà nhóm Đậu Dung ban hành năm Kiến Vũ thứ ba đã có ảnh hưởng không thể xem nhẹ đối với cách trả bổng “nửa cốc nửa tiền” của Đông Hán, cũng như đối với chế độ bổng lộc về sau.










































