Bức ảnh nổi tiếng nhất về thời kỳ Nhật Bản bị quân Đồng Minh chiếm đóng (từ tháng 8/1945 đến tháng 4/1952) cho thấy Tướng Douglas MacArthur cao lớn đứng cạnh Hoàng đế Hirohito nhỏ bé. Chính phủ Nhật thời điểm đó coi bức ảnh là một thảm họa. Trước đây, chỉ có nhiếp ảnh gia Hoàng gia mới được phép chụp ảnh hoàng đế, và họ cũng phải đứng cách xa ít nhất 20 mét, dùng ống kính tele. Do Hirohito hơi gù lưng, nên chỉ phần thân trên mới được phép chụp, còn chụp từ bên hông thì tuyệt đối cấm. Trong bức ảnh kia, MacArthur trông to lớn áp đảo, còn bộ vest của hoàng đế thì trông như không vừa vặn; với tư cách là một kami (thần linh sống), Hirohito vốn không thể để thợ may chạm vào người.
Chính phủ Nhật nhanh chóng tìm cách cấm các tờ báo đăng tải bức ảnh này. Nhưng phía Mỹ đã lật lại lệnh cấm, bởi họ hiểu rõ thông điệp mà bức ảnh mang lại: Đồng Minh – cụ thể là người Mỹ – mới là kẻ nắm quyền, với MacArthur ở vị trí Tư lệnh Tối cao của quân Đồng Minh (SCAP). Ngay cả các quan chức Nhật Bản lẫn nhiều nhân viên trong bộ máy chiếm đóng đều ngưỡng mộ ông, thậm chí còn đùa rằng mỗi sáng sớm có thể thấy ông “đi bộ trên mặt nước” quanh Hoàng cung Tokyo. Người Nhật gọi ông là “Tướng quân mắt xanh”.
Biệt danh đó, cùng với bức ảnh tai tiếng, đã khắc sâu dấu ấn của thời kỳ chiếm đóng trong lịch sử Nhật Bản. Hirohito hẳn thừa hiểu: Hoàng gia của ông đã không thực sự nắm quyền trong suốt gần một thiên niên kỷ. Từ lâu, đất nước nằm trong tay các tướng quân, lãnh chúa, và gần đây nhất là giới quân phiệt trong Lục quân Hoàng gia. Chỉ có một giai đoạn ngắn vào cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, Nhật mới do các chính trị gia dân sự điều hành. Và giờ đây, một lần nữa, lại là một vị tướng quân sự đến để biến hoàng đế thành bù nhìn.

Điều trớ trêu là MacArthur và chính quyền chiếm đóng lại dựa vào những mô thức truyền thống của quyền lực Nhật Bản, trong khi chính sứ mệnh của họ là lật đổ chúng. Ngay sau trận Trân Châu Cảng tháng 12/1941, Mỹ đã bắt đầu lên kế hoạch chiếm đóng. Các chuyên gia Mỹ hình dung về lịch sử Nhật theo cách riêng: từ khi Đề đốc Perry buộc Nhật mở cửa với phương Tây vào thập niên 1850, đất nước này nhanh chóng tiếp thu công nghệ quân sự, hệ thống ngân hàng – bưu điện, giáo dục, y tế, công nghiệp, thương mại, thậm chí cả mô hình dân chủ kiểu Phổ. Nhưng theo nhận định của họ, tâm lý phong kiến vẫn còn ăn sâu: người dân phục tùng quyền lực, thiếu tinh thần cá nhân, chưa tin vào dân chủ hay xã hội dân sự tự do. Và cải cách chiếm đóng phải đánh thẳng vào tâm lý đó.
Tuyên ngôn Potsdam và sự đầu hàng
Ngày 26/7/1945, Tuyên ngôn Potsdam vạch rõ mục tiêu: Nhật phải “đầu hàng vô điều kiện” nếu không sẽ bị “hủy diệt hoàn toàn”. Sau hơn hai tuần do dự thảm hại – khi Hiroshima và Nagasaki trở thành nạn nhân đầu tiên của thời đại hạt nhân và Liên Xô tham chiến – Hirohito quyết định chấp nhận các điều khoản Potsdam.
Cả Nhật lẫn Mỹ đều coi sự kiện này mang tầm vóc lịch sử lớn lao. Trong bài phát thanh tuyên bố chấm dứt chiến tranh, Hirohito nhắc tới “loại bom mới và tàn khốc” mà Mỹ chế tạo, đồng thời nói rằng Nhật phải đầu hàng để tránh “sự tuyệt diệt hoàn toàn của nền văn minh nhân loại”. Phía Mỹ, khi ký văn kiện đầu hàng trên chiến hạm USS Missouri ở vịnh Tokyo, đã cho treo hai lá cờ đặc biệt: một từng bay trên Nhà Trắng hôm bị tập kích Trân Châu Cảng, và một từng thuộc về hạm đội của Đề đốc Perry gần một thế kỷ trước.

Ba chữ D
Để tái tạo Nhật Bản, trước hết Mỹ tập trung vào ba “D”:
1. Giải giới (Demilitarisation). Quân đội bị giải tán, các ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh bị đóng cửa hoặc chuyển đổi. Một số cựu sĩ quan, như Arisue Seizō – cựu cục trưởng tình báo lục quân – bí mật chôn giấu tiền bạc và vũ khí, mong một ngày có cơ hội phục thù. Nhưng nhìn chung, Nhật bị chiếm đóng một cách yên bình đến mức nhiều binh sĩ Đồng Minh được rút đi nơi khác chỉ sau thời gian ngắn.
2. Phân quyền kinh tế (Decentralisation). Trong nửa đầu thế kỷ 20, sự lớn mạnh công nghiệp – quân sự của Nhật gắn liền với các tập đoàn tài phiệt zaibatsu và mối quan hệ chặt chẽ với chính trị gia, quan chức, quân đội. Chỉ riêng “tứ đại gia” Mitsui, Mitsubishi, Sumitomo, Yasuda đã từng kiểm soát một phần ba công nghiệp nặng và một nửa tài chính – bảo hiểm của Nhật. Chính quyền chiếm đóng buộc phải tháo gỡ cấu trúc quyền lực này, bất chấp sự chống cự từ các zaibatsu.
3. Dân chủ hóa (Democratisation). Lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ Nhật được quyền bầu cử (ngày 10/4/1946). Nhật chuyển sang mô hình nghị viện lưỡng viện, thủ tướng do đảng lớn nhất ở hạ viện chọn, hành pháp thuộc về nội các, tư pháp độc lập, và chính quyền địa phương được trao thêm quyền hạn. Đây là bước ngoặt so với hiến pháp cũ, vốn dồn tất cả mũi tên quyền lực hướng lên hoàng đế, tạo nên một hệ thống hỗn loạn, thiếu kiểm soát lẫn nhau – và cuối cùng dẫn Nhật vào thảm họa chiến tranh.

“Chiến lược Yokohama”
Ngay sau chiến tranh, giới tinh hoa chính trị Nhật tìm cách giảm bớt ảnh hưởng cải cách của Mỹ. Giải pháp được gọi nôm na là “chiến lược Yokohama”, lấy cảm hứng từ thế kỷ 19 khi Mạc phủ Tokugawa mở cảng Yokohama để tập trung người phương Tây vào một nơi, hạn chế họ gây rối bên ngoài.
Tương tự, khi Đồng Minh sắp đổ bộ vào cuối tháng 8/1945, Nhật đã chủ động giải tán quân đội, khôi phục vài chính sách thiên tả, nhằm “dọn thảm đỏ” dẫn dắt Mỹ theo hướng có lợi. Thực tế, điều này đã thành công một phần: cuộc tranh luận trong phe Đồng Minh về số phận hoàng đế kết thúc với quyết định giữ lại chế độ Thiên hoàng, nhưng chỉ như một “biểu tượng quốc gia” chứ không còn thần quyền. Hirohito hẳn nhẹ nhõm, vì ông luôn cảm thấy gánh nặng lịch sử đè nặng trên vai và ám ảnh với viễn cảnh triều đại kéo dài từ thế kỷ 6 có thể chấm dứt dưới thời mình.
Giới quan chức Nhật cũng thoát khỏi những cuộc thanh lọc gắt gao, vì chính họ mới là người có khả năng thực thi các kế hoạch cải cách của Mỹ. Niềm tin của Mỹ vào chuyên môn càng củng cố điều đó. Một kỳ thi mang tên “Paradise Exam” được tổ chức để đánh giá năng lực quan chức cấp cao – nhưng cho phép uống trà, hút thuốc, và làm bài bao lâu cũng được. Kết quả, phần lớn vẫn giữ ghế, thậm chí có người còn được giao quyền sàng lọc 200.000 đối tượng khác để đưa vào diện thanh trừng: nhà báo, giáo viên, nhà xuất bản, cảnh sát, và sĩ quan quân đội.
Công lý của kẻ chiến thắng
Sẽ sai lầm nếu nói mọi chuyện đều là một thắng lợi rành rành cho “Chiến lược Yokohama”. Kế hoạch của Mỹ dành cho Nhật vốn dĩ là quy trách nhiệm cho một số ít người về chủ nghĩa quân phiệt và các cuộc chiến tranh của Nhật, còn để cho phần đông còn lại được tham gia vào các cải cách đã hoạch định. Vì thế, vào tháng 4/1946, một nhóm nhỏ các nhân vật chóp bu trong bộ máy thời chiến của Nhật đã phải ra vành móng ngựa tại Tokyo, trong phiên tòa được coi là câu trả lời của Nhật cho Tòa án Nuremberg. Mười một thẩm phán từ các nước Đồng Minh đã nghe lời khai về những kế hoạch và âm mưu dẫn Nhật tới chiến tranh, lần ngược lại tận năm 1928. Mốc 1928 khá tùy tiện, và tại tòa đã có người phản đối. Nhà tư tưởng quân sự Ishiwara Kanji, được triệu làm nhân chứng, cho rằng nên bắt đầu từ cuộc “ngoại giao pháo hạm” định mệnh của Đề đốc Perry vào giữa thập niên 1850 thì công bằng hơn. Cựu thủ tướng Tōjō Hideki, đang đối mặt án tử, thì viện dẫn tới Chiến tranh Nha phiến giữa thế kỷ 19 với lập luận rằng chủ nghĩa đế quốc Anh đã có ảnh hưởng quyết định tới cục diện khu vực.
Hoàng đế Hirohito không phải người duy nhất thoát khỏi nỗi ô nhục và rủi ro bị đem ra xét xử. Tòa án Tokyo – tên gọi về sau – đã không điều tra hoạt động của Đơn vị 731 khét tiếng của Lục quân Đế quốc Nhật, đơn vị vũ khí sinh học đóng ở Mãn Châu từng tiến hành các thí nghiệm kinh hoàng như mổ xẻ người sống. Trái lại, các nhân sự cấp cao của đơn vị này được đề nghị miễn tố để đổi lấy dữ liệu khoa học mà phía Mỹ cho là quý giá. Hành vi của Đồng Minh trong chiến tranh cũng bị đặt ngoài phạm vi thẩm quyền của tòa, kể cả việc thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Danh tiếng của tòa, về sau, bị tổn hại nặng nề trên thế giới – và đặc biệt ở châu Á, nơi gánh chịu phần lớn đau thương do chủ nghĩa quân phiệt Nhật gây ra – bởi những lựa chọn như vậy. Lời buộc tội “công lý của kẻ chiến thắng” liên tục được nhắc lại.

Ngoài ra còn có những éo le ngay trong phòng xử. Trưởng công tố Joseph Keenan đã không đối phó thuyết phục được Tōjō Hideki. Keenan tiếp quản vào phút chót từ một cấp dưới chuẩn bị kỹ hơn, khiến kết quả thật bẽ bàng. Tōjō xoay sở làm dấy lên hoài nghi về nhiều chứng cứ và khẳng định – như từng nêu trước chiến tranh và sau này được phe siêu dân tộc chủ nghĩa ở Nhật lặp lại suốt nhiều thập niên – rằng Nhật chỉ hành động tự vệ trước vòng vây kẻ thù. Người đối mặt giá treo cổ là Tōjō, nhưng như lời một phụ nữ làm việc ở sứ quán Anh: “Tōjō đã có một buổi sáng ‘treo’ Keenan rất khéo.”
Dù có những khiếm khuyết ấy, những năm đầu chiếm đóng lại tỏ ra được người Nhật ưa chuộng. Thăm dò dư luận cho thấy đa số lớn ủng hộ các sắp đặt dân chủ mới, được ghi vào một bản hiến pháp mới tinh – bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử do một quốc gia khác soạn cho một nước. Một số đảng viên Cộng sản Nhật, vừa ra tù và bước vào tranh cử, đòi xử tử hoàng đế và hoàng hậu. Nhưng phần lớn người Nhật bằng lòng với việc duy trì hoàng quyền ở vai trò biểu tượng. Họ nô nức đi đón Hirohito trong các chuyến công du thường kỳ khắp nước. “Điều khoản hòa bình” nổi tiếng trong hiến pháp cũng rất được ủng hộ: sau khi quá thấm thía vì bị quân phiệt lừa dối và dẫn tới thảm họa, người dân chẳng mặn mà gì với chuyện tái vũ trang. Thậm chí kế hoạch lập một cơ quan kiểu FBI Nhật cũng phải gác lại, bởi công chúng vẫn còn sợ quay lại nền giám sát – đàn áp nội địa của Cảnh sát Đặc biệt và Kempeitai thời tiền chiến và chiến tranh.
“Đảo chiều” (Reverse Course)
Giới chỉ trích chiếm đóng có cả ở phía bảo thủ Nhật lẫn giới doanh nhân, người nộp thuế Mỹ. Phe bảo thủ lo Mỹ đang nối tiếp thắng lợi quân sự năm 1945 bằng một “cuộc chiến văn hóa”. Những quy định mới về ly hôn và tài sản đe dọa mô hình gia đình Nhật kiểu cũ, xoay quanh người cha quyền lực tuyệt đối. Sách giáo khoa do phía chiếm đóng duyệt dạy trẻ em cảm thức tội lỗi về sai lầm của đất nước, mà hầu như không có nội dung bồi đắp tình yêu nước. Từ rockabilly, trò chơi truyền hình cho đến việc kiểm duyệt văn nghệ Nhật, văn hóa đại chúng Mỹ dường như sắp tràn ngập truyền thông Nhật.
Trong khi đó ở Mỹ, người ta đặt câu hỏi: đổi lại thì Mỹ được gì cho khoảng 600 triệu đô la chỉ riêng chi phí nhân sự trong hai năm đầu chiếm đóng? Nhật chẳng giống một nơi hấp dẫn để vốn Mỹ đổ vào: phục hồi kinh tế chậm chạp, công đoàn phát triển nhanh, và có một bề rộng ủng hộ đáng ngại dành cho chủ nghĩa xã hội và cộng sản. Tại một cuộc “Ngày 1/5 vì lương thực” đặc biệt năm 1946, diễn ra ngay trước Hoàng cung, lãnh tụ cộng sản Tokuda Kyūichi diễn thuyết trước 200.000 người. “Chúng ta đang chết đói!” – ông hô lớn, rồi quay người chỉ về phía dinh thự lộng lẫy, kín cổng cao tường của hoàng đế Hirohito: “Còn ông ta thì sao?”
Tokuda đã trải qua phần lớn thời chiến trong tù, cùng đồng chí Shiga Yoshio – người kể rằng mình đã truyền trọn văn bản Hiến pháp Liên Xô cho một bạn tù ở phòng bên bằng tín hiệu Morse. Với những câu chuyện lãng mạn như thế, lại không dính líu tới chế độ thời chiến, Tokuda và các đồng chí tưởng thời của họ đã tới. Thực ra, đó chỉ là một khoảnh khắc “nắng ấm” ngắn ngủi – và nó đã sắp tắt. Chủ nghĩa cộng sản dâng lên ở Đông Âu, và tháng 10/1949, cuộc Cách mạng cộng sản diễn ra ở Trung Quốc – điều phương Tây lo ngại bấy lâu. Những biến chuyển đó góp phần khởi phát cái gọi là “Đảo chiều”: một bước chuyển bảo thủ trong chính sách chiếm đóng, có tính quyết định chẳng kém giai đoạn trước trong việc tái định hình Nhật Bản.

Giai đoạn 1949–1952, các cuộc thanh lọc của chính quyền chiếm đóng tập trung vào ảnh hưởng cánh tả trong đời sống Nhật. Kế hoạch “xẻ nhỏ” các zaibatsu bị làm cho mềm đi; Mỹ – muốn củng cố Nhật như một đồng minh khu vực – khuyến khích thành lập Lực lượng Dự bị Cảnh sát Quốc gia (National Police Reserve). Lực lượng này ra đời khi bùng nổ Chiến tranh Triều Tiên năm 1950, đòi hỏi điều chuyển một lượng lớn quân nhân Mỹ đang đóng ở Nhật sang bán đảo. Về danh nghĩa là lực lượng an ninh nội địa, nhưng ngay từ đầu NPR đã được định hình như hạt nhân của quân đội Nhật tương lai; về sau nó phát triển thành Lực lượng Phòng vệ (tên gọi vẫn dùng tới nay).
Tầm nhìn mới cho Nhật thể hiện rõ nhất trong hai hiệp ước Mỹ–Nhật ký năm 1951, khép lại thời kỳ chiếm đóng. Hiệp ước Hòa bình San Francisco, giữa Nhật và các cựu thù, chính thức chấm dứt xung đột, buộc Nhật từ bỏ các lãnh thổ đã chiếm, đồng thời đề ra một chương trình bồi thường ở mức khiêm tốn. Liên Xô từ chối ký, chủ yếu vì phản đối Hiệp ước An ninh Mỹ–Nhật được ký cùng lúc. Theo các nhà phê bình, hiệp ước an ninh này biến quần đảo Nhật thành một “tàu sân bay khổng lồ” của Mỹ: cho phép Mỹ duy trì căn cứ quân sự cùng hàng chục nghìn binh sĩ trên đất Nhật, hiện diện dày đặc đặc biệt ở Okinawa – nơi vẫn thuộc quyền kiểm soát của Mỹ ngay cả sau khi chiếm đóng kết thúc vào năm 1952.
Lợi ích của Nhật trong các dàn xếp ấy là một phép trao đổi đơn giản. Đổi lại việc gần như “khoán ngoài” chính sách đối ngoại cho Mỹ, Nhật được bảo đảm an ninh (với chi phí tối thiểu), kinh tế được hỗ trợ bằng tỷ giá đô la–yên thuận lợi, và Mỹ đứng ra “bảo lãnh” cho Nhật trong một cộng đồng quốc tế vẫn còn dè dặt. Với sự giúp đỡ của Mỹ, Nhật gia nhập IMF và Ngân hàng Thế giới năm 1952, và Liên Hợp Quốc năm 1956.
Mặt trái
Di sản tích cực dễ thấy nhất trong những thập niên sau đó là Nhật giữ được hòa bình, kinh tế tăng trưởng nhanh, dân chúng từ chỗ thiếu đói, bệnh tật đã vươn tới mức sống khiến nhiều nước phải ganh tị – từ tiện nghi công nghệ cao đến tuổi thọ trung bình vượt 80.
Nhưng có những mặt trái. Đầu tiên, Nhật đã làm ít hơn mức có thể để hàn gắn quan hệ với các láng giềng châu Á. Không thể đổ hết lỗi cho Nhật và Mỹ: mức độ thù hận ở những nơi như Hàn Quốc sâu đến nỗi chỉ thời gian mới giúp quan hệ trở lại bình thường. Dẫu vậy, Mỹ đã cấm Nhật thiết lập quan hệ với Trung Quốc cộng sản cho tới khi chính Mỹ thay đổi lập trường vào đầu thập niên 1970 dưới thời Richard Nixon. Cộng thêm xu hướng của một bộ phận lớn người Nhật ưa thích văn hóa và bằng hữu phương Tây hơn châu Á, cùng sự né tránh mạnh mẽ khi nhắc tới chiến tranh, điều này khiến nhiều người có ấn tượng rằng Nhật không có một giai đoạn tự vấn – sám hối nhức nhối nhưng cần thiết – như nước Đức Tây phương sau chủ nghĩa Quốc xã.
Di sản không mong muốn thứ hai của thời chiếm đóng được Donald Trump nhắc lại trong chiến dịch tranh cử năm 2016. Vận động ở Iowa, ông nói:
“Các bạn biết đấy, chúng ta có một hiệp ước với Nhật: nếu Nhật bị tấn công, chúng ta phải dùng toàn bộ sức mạnh của Hoa Kỳ. Còn nếu chúng ta bị tấn công, Nhật chẳng phải làm gì cả. Họ có thể ngồi nhà xem ti-vi Sony. Những kiểu thỏa thuận gì vậy?”
Bất chấp thực tế hiến pháp hòa bình của Nhật do chính Mỹ soạn, và người Nhật gánh phần lớn chi phí đồn trú của lính Mỹ, một quan điểm phổ biến ở Mỹ – đặc biệt thập niên 1980–1990 – là Nhật hưởng lợi rất nhiều từ Mỹ trong khi “đánh” Mỹ trên thương mại. Người New York cảm nhận rõ điều này năm 1989 khi Sony mua Columbia Pictures và Mitsubishi nắm quyền kiểm soát Rockefeller Group. Vài năm sau, trong Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất, Nhật đóng góp tới 13 tỷ đô la, vậy mà một số nhà phê bình ở Mỹ vẫn càm ràm “họ trả bằng yên, còn chúng ta trả bằng máu”.

Di sản buồn bã thứ ba là tình trạng nền dân chủ Nhật. Với mục tiêu củng cố Nhật như một đồng minh bảo thủ đáng tin, Mỹ – theo cáo buộc có sử dụng CIA – đã giúp tài trợ và sắp xếp để thành lập Đảng Dân chủ Tự do (LDP) năm 1955. Liên minh các lực lượng bảo thủ này hiếm khi rời ghế cầm quyền, làm xói mòn chính nền dân chủ mà giai đoạn đầu chiếm đóng nỗ lực xây dựng. Tới cuối thập niên 1980, LDP vẫn còn có thể tự nhận đã tạo dựng được mạng lưới quan hệ với doanh nghiệp, nông dân, ngân hàng góp phần đưa Nhật phồn thịnh. Nhưng sau đó Nhật sa sút, bước vào “những thập kỷ mất mát” về tăng trưởng. Sự ủng hộ dành cho chính trị cấp quốc gia vì thế đi xuống – dù chuyện dân chúng thất vọng với giới dân cử thì Nhật cũng không đơn độc.
Tám mươi năm sau, nhìn lại, ta có thể đồng ý rằng với chiều sâu thù hận và nỗi thống khổ đặc trưng cho những tháng cuối của Thế chiến II ở châu Á – Thái Bình Dương, cuộc chiếm đóng Đồng Minh ở Nhật đã có thể tệ hơn rất nhiều. Người ta từng lo bạo lực kháng cự; tốt lắm thì cũng chẳng trông mong được hợp tác. Thế mà trái lại, năng lượng và khát vọng của người dân thường đã được giải phóng thành công: từ những doanh nghiệp mới toanh như Sony – khởi nghiệp dưới thời chiếm đóng với việc chở những chiếc máy ghi âm nặng 35 kg bán dạo sau thùng xe tải – cho tới hàng triệu tá điền có cơ hội mua mảnh đất họ canh tác.
Các di sản không mong muốn của thời chiếm đóng vẫn chưa được khắc phục hoàn toàn, nhưng nền dân chủ Nhật hôm nay hưởng lợi từ sự xuất hiện của các đảng phái quốc gia mới, chính quyền địa phương mạnh, và các nhóm công dân hoạt động để thay đổi trên nhiều lĩnh vực. Về đối ngoại, trong thập kỷ qua, các sắp xếp quốc phòng – an ninh của Nhật đã được tăng cường, dần nới bớt sự lệ thuộc vào Mỹ. Đồng thời cũng có thể hình dung – có lẽ trong thời kỳ “hậu Tập Cận Bình” – một quan hệ chiến lược hiệu quả hơn với Trung Quốc. Nhật và Trung Quốc làm ăn với nhau ở quy mô khổng lồ: năm 2024, xuất khẩu của Nhật sang Trung Quốc trị giá 124 tỷ đô la, còn của Trung Quốc sang Nhật khoảng 152 tỷ đô la. Hy vọng rằng giá trị hòa bình và thịnh vượng mà cả hai dân tộc cùng trân trọng sẽ thấm tới các nhà lãnh đạo, giúp bảo đảm rằng, dù quan hệ Mỹ–Nhật đi theo hướng nào, Đông Á vẫn tiếp tục thêm 80 năm nữa mà không có xung đột lớn giữa hai cường quốc của khu vực.