Triết Học

Luận thuyết thần học–Chính trị của Spinoza

Khám phá cách Spinoza thách thức thẩm quyền tôn giáo, phê phán mê tín và tái định nghĩa vai trò của đức tin trong chính trị.

Nguồn: The Collector
0 views
triet hoc spinoza

Tóm lược

  • Tractatus Theologico-Politicus (1670) của Spinoza phê phán tôn giáo như một công cụ chính trị.
  • Ông cho rằng giá trị của tôn giáo nằm ở khả năng gieo dưỡng các nguyên tắc đạo đức, không phải ở việc truyền đạt chân lý thần linh.
  • Spinoza xem mê tín là một tập hợp hành vi bắt nguồn từ Kinh Thánh.
  • Ông nhấn mạnh sự khoan dung tôn giáo và việc tách tôn giáo khỏi quyền lực nhà nước.
  • Spinoza đồng nhất Thượng Đế với tự nhiên, bác bỏ quan niệm siêu việt về Thiên Chúa.
  • Trong chính trị, ông chủ trương một chủ quyền dùng tôn giáo một cách thực dụng để duy trì trật tự.

Triết học của Baruch Spinoza đã vẽ lại ranh giới giữa tôn giáo và chính trị. Nổi tiếng với những ý tưởng gây tranh cãi, ông vẫn là nhân vật then chốt trong các tranh luận về vai trò của tôn giáo trong xã hội. Phê phán Kinh Thánh của Spinoza là phủ nhận Thiên Chúa, hay là một bước ngoặt trong lý thuyết chính trị? Bài viết này khảo sát những quan điểm cấp tiến của ông về tôn giáo, Kinh Thánh và nhà nước — như được trình bày trong Tractatus Theologico-Politicus — đồng thời xem xét ảnh hưởng lâu dài của chúng.

Tractatus Theologico-Politicus của Spinoza: Tái định nghĩa Tôn giáo và Chính trị

Politics in an Oyster House, Richard Caton Woodville, 1848.
Politics in an Oyster House, Richard Caton Woodville, 1848.

Spinoza dường như trên thực tế là người vô thần — hoặc ít nhất có một quan niệm về Thượng Đế khác triệt để so với đồng thời, đến mức chắc chắn bị đọc như thế. Trong Tractatus Theologico-Politicus (1670) (gọi tắt là TTP), Spinoza quyết định phân tích chức năng của tôn giáo, chủ yếu như một công cụ của chính quyền.

Ông xem tôn giáo là phương tiện khuyến khích vâng phục và truyền đạt hiệu quả những mệnh lệnh đạo đức đơn giản. Khuynh hướng chính trị rút ra rõ ràng là gần với Hobbes: nhấn mạnh sự cần thiết của một chủ quyền duy nhất, dưới quyền người đó mọi thẩm quyền tôn giáo đều bị đặt xuống.

Điều vắng bóng dễ thấy trong cách Spinoza trình bày về tôn giáo là bất kỳ gợi ý nào rằng tôn giáo — bất kỳ tôn giáo nào — sở hữu các chân lý siêu việt tự thân có giá trị.

Việc ông gần như “hóa giải” quyền tự nhiêntính quy phạm trong triết học chính trị khiến các mệnh đề còn lại trong TTP trở thành hoàn toàn thực dụng.

Theo đó, chủ quyền không buộc phải thực hành khoan dung tôn giáo hơn là cá nhân buộc phải hành động theo một cách nhất định; điều quan trọng, luôn luôn, chỉ là gia tăng hay suy giảm năng lực hành động. Spinoza cho rằng tự do tôn giáo là một biện pháp hiệu quả để nhà nước giảm bất ổn và ngăn cách mạng.

Spinoza Excommunicated, Samuel Hirszenberg, 1907.
Spinoza Excommunicated, Samuel Hirszenberg, 1907.

Bức tranh hiện ra là một tư tưởng gia không quá bận tâm đến chân lý giáo lý của bất kỳ tôn giáo cụ thể nào. Mối bận tâm chính của ông là gỡ bỏ những chướng ngại tôn giáo ngăn cản con người hành động phù hợp với chân lý mà triết học đem lại.

Trong một mệnh đề bị coi là lạc giáo của TTP, Spinoza gợi ý ngay ở lời tựa rằng tôn giáo không đem lại tri thức cho tín hữu; thay vào đó, nó cung cấp một bộ nguyên tắc đạo đức mà tính phổ biến và sự tuân thủ cần mẫn của chúng quan trọng đối với vận hành hiệu quả, hài hòa của nhà nước.

Spinoza bác bỏ mê tín trong tôn giáo

The Philosopher in Contemplation, Rembrandt van Rijn, 1632.
The Philosopher in Contemplation, Rembrandt van Rijn, 1632.

Lời tựa TTP mở đầu bằng giọng điệu bác bỏ mạnh mẽ. Spinoza tuyên bố dự án của mình là tách giá trị hữu ích của tôn giáo khỏi hành trang mê tín và hoang tưởng.

Ông xác định mê tín như một tập hợp rộng những niềm tin và hành vi, nhiều điều trong đó bắt nguồn từ Kinh Thánh. Dẫu văn bản tự nhận là “thần học”, Spinoza hầu như không mấy bận tâm đến tôn giáo cụ thể nào. Những phần ông coi là giá trị — trên hết là khả năng gieo cấy các giá trị đạo đức, kể cả vâng phục tuyệt đốivượt qua ranh giới giáo phái.

Quan niệm về phép lạ và kinh thánh

The Miracle of the Slave, Tintoretto, 1548.
The Miracle of the Slave, Tintoretto, 1548.

Tóm lại, cam kết tôn giáo của Spinoza không giống với những gì Do Thái giáo hay Kitô giáo trình bày đến mức có thể bỏ qua khác biệt giữa chúng. Những khác biệt Kinh Thánh giữa hai tôn giáo rơi vào phạm trù nghi thứcmê tín, khỏi đó ông muốn tách riêng “lõi” đạo đức của tôn giáo.

Vì mục tiêu ấy, ông khẳng định rằng tôn giáo, dù có ưu điểm chính trị, không phải nguồn tri thức. Khẳng định này chẳng giúp ông tránh khỏi cáo buộc lạc giáo.

Sự tranh cãi dữ dội quanh TTP củng cố danh tiếng “tà thuyết” vốn đã đáng kể của Spinoza: các lời lẽ bác bỏ và phê phán Kinh Thánh xuất hiện dày đặc trong những bình luận đương thời lên án tác phẩm. Spinoza phủ nhận các chân lý được cho là của Kinh Thánh, bác nguồn gốc thần hứng của Ngũ Thư, và phủ nhận thực tại của phép lạ.

Theo Spinoza, phép lạcác câu chuyện Kinh Thánh phần lớn nên đọc như ẩn dụ: cách thức truyền đạt đạo đức tôn giáo cho đại chúng chứ không phải sự kiện lịch sử. Rốt cuộc, nếu Thượng Đế là tự nhiên, như Spinoza tin, và luật của Ngài là luật tự nhiên, thì khó mà nói rằng Ngài biểu lộ chính mình bằng cách vi phạm các luật ấy.

Chủ Nghĩa Tự Nhiên của Spinoza

The Garden of Eden with the Fall of Man, Jan Brueghel the Elder & Peter Paul Rubens, 1615.
The Garden of Eden with the Fall of Man, Jan Brueghel the Elder & Peter Paul Rubens, 1615.

Với cùng tinh thần “hạ nhiệt” (deflationary), Spinoza muốn trình bày con người về bản chất là thân xác, có “linh hồn” chỉ chừng nào còn sống. Cái biến mất — ở đây cũng như trong Ethics (Đạo Đức Học) — là mọi khái niệm siêu việt. Dẫu nói về vô hạn thuộc tính, Spinoza trước hết hiện ra như một nhà duy vật.

Như trong Ethics, Spinoza ở TTP muốn thay thế một quan niệm tự nhiên luận về Thiên Chúa và tôn giáo cho quan niệm giáo điều. Ông đề xuất — theo định nghĩa Thiên Chúa là thực thể (substance) — rằng dưới thuộc tính vật chất của Thiên Chúa như tự nhiên, có vẻ trực giác khi nói rằng những sự thật bình thường về thế giới tự nhiên tạo thành mặc khải.

Sự nhấn mạnh của Spinoza vào việc “thần thánh hóa” tri thức thường nhật phần nào giảm bớt “mùi vô thần” trong phê phán Kinh Thánh. Tuy vậy, việc ông tập trung vào mê tínmâu thuẫn Kinh Thánh cho thấy mối bận tâm chính của ông là phủ định hơn là khẳng định.

Niềm tin tôn giáo riêng tư, theo Spinoza, thuộc về cá nhân — không hẳn vì họ nên có quyền ấy, mà vì trên thực tế chủ quyền khó hoặc không thể kiểm soát niềm tin. Tuy nhiên, câu hỏi “con người buộc phải vâng phục Thiên Chúa như thế nào” thì phải do chính quyền dân sự trả lời.

Thiên Chúa không có vương quốc đặc biệt nào giữa loài người ngoại trừ việc Ngài trị vì qua các nhà cầm quyền trần thế,” Spinoza viết; bằng mệnh đề ấy, ông giảm mạnh quyền lực mà các giới chức tôn giáo đương thời vẫn mặc nhiên nắm giữ.

Spinoza viện dẫn mẫu hình Môsê — vừa là lãnh đạo trần thế vừa là lãnh tụ tinh thần — để đặt luận điểm của mình trên tiền lệ Kinh Thánh, song cách ông diễn đạt gợi mở điều cấp tiến hơn.

Các nhà lãnh đạo tinh thần

Moses Smashing the Tablets of the Law, Rembrandt van Rijn, 1659.
Moses Smashing the Tablets of the Law, Rembrandt van Rijn, 1659.

Vậy Spinoza nghĩ vai trò của các nhà lãnh đạo tinh thần là gì? “Trong trạng thái tự nhiên,” ông gợi ý, “ta không thể quan niệm tội lỗi tồn tại […] chưa hề có sự phân biệt giữa đạo đức và vô đạo, giữa kẻ tinh sạch (như lời Salomon) và kẻ ô uế.”

Nói ngắn gọn, không chỉ là Spinoza cho rằng các nhà cầm quyền trần thế cần thiết để truyền đạt luật của Thiên Chúa, mà họ còn là sự thể hiện đầu tiên của luật ấy; trước họ không tồn tại một đạo đức siêu việt nào.

Xét đến các bình luận khác của Spinoza về mục đích của luậttầm quan trọng của tôn giáo như công cụ để chủ quyền truy xuất sự vâng phục của thần dân, khó mà cho rằng lời khuyên của ông về việc sử dụng chính trị của giáo lý tôn giáo có liên quan đến những mệnh lệnh đạo đức thật sự ràng buộc như trong Ethics.

Chủ nghĩa thực dụng chính trị và khoan dung tôn giáo

The Parable of the Wise and Foolish Virgins, Friedrich Wilhelm Schadow, khoảng 1838.
The Parable of the Wise and Foolish Virgins, Friedrich Wilhelm Schadow, khoảng 1838.

Điều đáng chú ý: ở phần này của TTP, Spinoza nhắc đến công lýbác ái — những giá trị không xuất hiện trong Ethics. Hiện ra một bức tranh về luật pháp mà, bất kể liên hệ bề ngoài với Mười Điều Răn, lại sinh ra từ thực dụng chính trị. Ông chỉ ra tính tiện dụng của thiên đàng–địa ngục trong việc giữ thần dân trong khuôn phép.

Sự khẳng định của Spinoza rằng chính quyền dân sự phải quyết định tất cả những gì liên quan đến thực hànhbiểu đạt tôn giáo công cộng dường như dựa trên thực dụng chính trị, không phải mối bận tâm tinh thần. Ông không nói tôn giáo nào xứng đáng là “cánh tay tinh thần” của chủ quyền; thay vào đó, ông chủ trương khoan dung tôn giáo.

Mục tiêu của tính thực dụng ấy là gì? Nhiều nhà chú giải coi các nhận xét về khoan dung và sự tách biệt mà ông đề xuất giữa tôn giáotriết học như lời đáp úp mở cho những khủng hoảng thần học ở Cộng hòa Hà Lan thế kỷ 17. Điều này có lẽ lý giải độ căng giữa chính sách tôn giáo có vẻ tự do của Spinoza và quan niệm Hobbes của ông về quyền.

Tuy nhiên, ở những chỗ khác, Spinoza nhấn mạnh chính trị của ông phát xuất từ đạo đức học. Các nguyên tắc ông nêu ra hướng đến việc xây dựng một nhà nước hài hòa, nơi mọi người có thể tối đa hóa lợi ích của mình.

Chính Trị thực dụng Của Spinoza

Chi tiết “The Creation of the Sun and Moon” (Thiên Chúa Cha), Michelangelo, 1511.
Chi tiết “The Creation of the Sun and Moon” (Thiên Chúa Cha), Michelangelo, 1511.

Nếu nghiêm túc tiếp nhận quan điểm Spinoza, thì sự dấn thân của ông vào chính sách tôn giáo là nỗ lực dọn sạch mặt bằng khỏi các nghĩa vụ can thiệp. Rốt cuộc, theo cái nhìn của ông, phân biệt giữa hành động tốt và xấu tồn tại trước các nhà cầm quyền trần thế. Không phải mọi giá trị đạo đức đều phụ thuộc chính trị như các giá trị Kinh Thánh.

Quan niệm độc đáo của Spinoza về Thiên Chúa như tự nhiênluật tự nhiên khiến triết học chính trị của ông mang màu sắc thế tục — điều góp phần khiến ông bị tiếp nhận như nhà tư tưởng lạc giáo. Một phần vì thế, Spinoza thường bị đọc như Hobbes thuần túy. Tuy nhiên, ẩn dưới dự án chính trị của ông là một quan niệm riêng về quyền lực và mối quan hệ của nó với điều thiện, xuất phát trực tiếp từ các mệnh đề của Ethics — và đó là điều hoàn toàn của riêng Spinoza.

Rate this post

DONATE

Toàn bộ tiền donate sẽ được dùng để:

  • Nghiên cứu – Mua tài liệu, thuê dịch giả, kỹ thuật viên.
  • Duy trì máy chủ và bảo mật website
  • Mở rộng nội dung – Thêm nhiều chủ đề, bản đồ, minh họa

THEO DÕI BLOG LỊCH SỬ

ĐỌC THÊM